Thánh Catarina, biết ơn vì sự giải thích của Thiên Chúa, tìm kiếm sự sáng tỏ hơn về việc hướng dẫn người khác và phân định những tình trạng tâm linh xác thực. Chị sợ xét đoán sai những ai tìm kiếm lời khuyên bảo và nhận biết niềm vui tinh thần chân thật chống với sự tự dối mình.
Thiên Chúa trả lời, khuyên khích chị hãy vươn lên trên những cảm giác nhục dục và nhìn với ánh sáng của trí tuệ và đức tin. Ánh sáng lý lẽ này, xuất phát từ Thiên Chúa, hướng dẫn các linh hồn trong chân lý, giúp họ bước đi trong đường lối ơn sủng.
Có ba loại ánh sáng: 1. Ánh Sáng Tổng Quát: Nhận biết bản chất biến đổi của những điều thế gian và hiển rõ sự mong manh của chính mình cũng như xu hướng phạm tội. Ánh sáng này nuôi dưỡng sự khiêm tốn và thực sự biết mình, ngăn cản sự kiêu căng 2. Ánh Sáng Đức Tin: Được ban cho trong bí tích rửa tội, nó là nền tảng của lý lẽ và nhân đức, hướng dẫn linh hồn đến Thiên Chúa, Ánh Sáng Đích Thực. 3. Ánh Sáng Ơn Sủng: Cần để nhận biết tội và nhân đức, giúp yêu mến Thiên Chúa và tha nhân.
Hiểu rõ sự mong manh của chính bản thân và sự bất ổn của thế gian qua những ánh sáng này sẽ cổ vũ sự khiêm tốn và nhân đức, cần để sống trong ơn sủng của Thiên Chúa. Sự thiếu hiểu biết về tật xấu, nhân đức, và sự thiện hảo của Thiên Chúa dẫn đến một tình trạng đọa đầy, nêu cao sự cần thiết của những ánh sáng thiêng liêng này để thăng tiến tâm linh và sự cứu độ.
Khi linh hồn có được ánh sáng tổng quát của Thiên Chúa, nó phải cố gắng hơn nữa, vì sự trì trệ có nghĩa thoái lui. Nó phải nhắm đến một ánh sáng thứ hai, hoàn hảo hơn, là từ bỏ lối sống tổng quát của thế gian. Có hai loại hoàn hảo:
1. Sự Hành Xác. Một số người hoàn toàn nhắm đến hình phạt trên thân xác để chế ngự những khao khát của họ. Họ tốt và hoàn hảo nếu sự sám hối của họ được hướng dẫn bởi sự suy xét khôn ngoan và bám chặt vào sự khiêm tốn và thánh ý của Thiên Chúa. Tuy nhiên, nếu họ không thực sự khiêm tốn, họ có thể xét đoán những ai không đi theo đường lối của họ, như thế thiệt hại đến sự hoàn hảo của chính họ. Họ thường tự lừa dối mình, nghĩ rằng cách sám hối của họ là cách đúng duy nhất.
2. Thực Sự Khiêm Tốn. Những ai thực sự khiêm tốn thì chấp nhận bất cứ gì Thiên Chúa ban hay cho phép vì sự cứu độ của họ. Họ chú trọng đến việc tiêu hủy ý riêng của mình thay vì chọn thời gian, nơi chốn, hay những an ủi của chính họ. Điều này dẫn đến tình trạng thứ ba và hoàn hảo nhất.
Những ai trong tình trạng thứ ba thì đón nhận mọi biến cố với sự tôn kính, nhìn thấy mọi sự là thánh ý của Thiên Chúa để thánh hóa họ. Họ hiểu rằng Thiên Chúa cho phép xảy ra những khốn khó là vì tốt cho họ, và họ cố gắng bảo tồn cũng như gia tăng sự hoàn hảo để vinh danh Người. Họ sống theo giáo lý của Đức Kitô bị đóng đinh, họ yêu mến và chịu đựng những đau khổ với sự kiên nhẫn và niềm vui, và không tìm những an ủi cá biệt.
Những linh hồn như thế thì phục vụ Thiên Chúa và tha nhân hoàn toàn vì yêu mến, không vì lợi lộc cá nhân. Họ chết đi chính ý muốn và những khao khát của mình, họ tìm thấy niềm vui trong mọi điều kiện và nhìn thấy sự thiện hảo của Thiên Chúa trong mọi sự. Họ không bao giờ xét đoán người khác, nhưng tỏ lòng thương cảm và cầu nguyện cho kẻ có tội.
Một thị kiến được tổ lộ cho thánh Catarina về phương pháp đạt được sự tinh khiết hoàn hảo: kết hợp với Thiên Chúa qua tình yêu và tránh xét đoán người khác. Sự kết hợp này gột sạch linh hồn, đưa linh hồn đến gần Thiên Chúa hơn, và càng kết hợp với Thiên Chúa bao nhiêu, linh hồn càng trở nên tinh khiết bấy nhiêu. Linh hồn phải nhìn thấy thánh ý của Thiên Chúa trong mọi sự và không xét đoán ai, thay vào đó là dâng hiến lòng từ bi thánh thiện.
Những linh hồn trong tình trạng này được nếm thử đời sống vĩnh cửu, không trọn vẹn hoàn hảo, bởi vì họ vẫn cảm thấy đau đớn và sự trắc ẩn. Họ tha thiết mong ước Thiên Chúa được tôn vinh và các linh hồn được cứu độ, họ không ngừng được nuôi dưỡng bởi tình yêu tha nhân. Sự khao khát và tình yêu này là một đảm bảo của đời sống vĩnh cửu, mặc dù sự tuyệt hảo trọn vẹn chỉ đạt được trong đời sống bất tử.
Thánh Catarina, trong sự biết ơn về những mặc khải của Thiên Chúa, cầu nguyện cho toàn thế giới, Hội Thánh, và các con thiêng liêng của chị. Chị xin được hướng dẫn để tránh xét đoán và xin sức mạnh để sống giáo lý của Thiên Chúa. Chị đặc biệt cầu nguyện cho những vị linh hướng của mình, chị tìm kiếm sự hòa hợp và sức mạnh cho họ để chu toàn vai trò của mình.
Thiên Chúa bảo đảm chị rằng những lời cầu xin và nỗ lực của chị sẽ không vô ích. Người hứa sẽ thỏa đáp những ao ước của chị cho sự cứu độ người khác và khích lệ chị tiếp tục cầu nguyện và sống theo gương của Người. Thiên Chúa nhắc nhở chị rằng sự khiêm nhường và hy vọng nơi Người thì cần thiết để nhận được ơn sủng của Người và chu toàn thánh ý Người.
Thiên Chúa giải thích phẩm giá cao quý của các linh mục bằng cách so sánh vai trò của họ với tình yêu tổng quát Người ban cho mọi tạo vật của Người. Các linh mục có một chỗ đứng đặc biệt bởi vì họ phân phát Máu Chúa Kitô, đó là điều cần thiết cho sự cứu độ. Thiên Chúa tạo nên loài người theo hình ảnh của Người và nâng nó lên trên các thiên thần bởi mặc lấy bản tính nhân loại, không phải bản tính thiên thần. Sự hòa hợp giữa thiên tính và nhân tính trong Đức Kitô đem cho con người, nhất là các linh mục, một phẩm giá cao hơn.
Mình và Máu Chúa Kitô, tượng trưng là một mặt trời, được ban cho nhân loại qua các linh mục. Bí tích này thì trọn vẹn và không thể phân chia, chứa đựng toàn thể bản chất của Thiên Chúa và loài người. Ngay cả khi bánh thánh bị bẻ ra thành nhiều mẩu, mỗi mẩu vẫn chứa đựng toàn thể sự hiện diện của Thiên Chúa. Ánh sáng của bí tích này vẫn không suy giảm, rất giống như một ngọn lửa đốt nhiều cây nến mà không mất đi sự sáng của chính nó.
Những ai lãnh nhận bí tích này cách xứng đáng, với tình yêu và ao ước thánh thiện, thì nhận được trọn vẹn ơn sủng của bí tích này. Tuy nhiên, những ai lãnh nhận trong một tình trạng tội trọng thì không được ơn sủng và lại gia tăng tội lỗi và sự hỗn loạn của họ. Linh hồn bất xứng thì giống như ngọn nến ngâm trong nước, không thể giữ được lửa cháy.
Các giác quan của thể xác chỉ nhận được các tính chất vật lý của bánh và rượu. Tuy nhiên, linh hồn nhận được sự hiện diện thật của Thiên Chúa và Đức Kitô qua con mắt trí tuệ, nhờ ánh sáng của đức tin thánh thiện. Sự lãnh nhận này được củng cố hơn nữa qua tình yêu và sự khao khát thánh thiện, cho phép linh hồn này thực sự nhìn thấy, chạm đến, và nếm được mầu nhiệm Thiên Chúa.
Một linh hồn sống trong ơn sủng mà lãnh nhận bí tích này thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ngự trong họ, rất giống như cá trong đại dương. Sự kết hợp này để lại một dấu ấn ơn sủng, được diễn đạt như một con dấu trên sáp nóng, mà nó vẫn còn sau khi chất liệu bánh được tiêu thụ. Dấu ấn này bao gồm lòng bác ái, sự khôn ngoan, và sức mạnh của Thiên Chúa để tăng sức cho linh hồn chống với tội và quỷ dữ.
Các linh hồn, được ban cho vai trò phân phát Mình và Máu Chúa Kitô, thì buộc phải duy trì sự tinh khiết và tình yêu lớn lao hơn. Họ phải cho thấy lòng bác ái hoàn hảo và một tâm hồn, thân xác, và tâm trí trong sạch. Bất cứ tội hay sự ô uế nào trong một linh mục thì không chỉ ảnh hưởng đến chính họ mà cả các linh hồn họ chịu trách nhiệm.
Các thừa tác viên chức thánh được ví như mặt trời, lan tỏa ánh sáng và sự ấm áp. Các nhân đức của họ làm giảm bớt các nết xấu của người khác, và họ hướng dẫn bởi làm gương, khích lệ người khác đi theo đời sống thánh thiện của mình. Họ phân phát các bí tích và sự sáng của ơn sủng Thiên Chúa, xua tan tội lỗi và sự tăm tối.
Các thừa tác viên này là các mục tử đích thực, họ chấn chỉnh và dẫn dắt đàn chiên của mình mà không sợ hãi hay thiên vị. Họ trân quý sự khiêm nhường, khó nghèo, và tự ý hy sinh, thường chịu đựng gian khổ vì giáo đoàn của mình. Họ giữ sự công bằng, khiển trách các tội mà không sợ hãi hèn hạ và bảo đảm giáo dân sống nhân đức.
Sự công bằng thì cần thiết để duy trì trật tự trong luật dân sự cũng như luật của Thiên Chúa. Các giám mục và linh mục nào không khiển trách tội lỗi thì gây nên sự thiệt hại lớn lao, vì tội không được giải quyết sẽ lan tràn sự thối nát. Sự công bằng đích thực, được thi hành với sự khiêm nhường và không sợ hãi, đem lại bình an và hợp nhất, trong khi sự bất công dẫn đến sự chia rẽ và tối tăm.
Các mục tử đích thật, không giống như những người sợ mất địa vị hay của cải, thực hành công bằng với sự can đảm và khiêm nhường. Ho cung cấp các nhu cầu tinh thần và vật chất cho đàn chiên, tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa, và ưu tiên hóa sự cứu độ các linh hồn trên sự tiện nghi hay thân xác của chính họ.
Các linh mục là những người hướng dẫn tinh thần, giống như các thiên thần, họ dẫn dắt đàn chiên với những khích lệ thánh thiện, lời cầu nguyện, và gương mẫu. Họ phân phối của cải vật chất của Giáo Hội với sự công bằng mà không sợ hãi, tin tưởng vào sự dự phòng của Thiên Chúa. Đời sống của họ được ghi dấu với sự hy sinh, khiêm nhường, và bừng cháy tình yêu vì Thiên Chúa và các linh hồn.
Các thừa tác viên chức thánh, được thúc đẩy bởi ao ước làm vinh danh Thiên Chúa và sự cứu độ các linh hồn, họ chấp nhận mọi thử thách và khổ cực. Họ ban phát các bí tích với sự sùng mộ thực sự, và đời sống của họ thơm ngát nhân đức họ thi hành, tỏa sáng trong Giáo Hội.
Những thừa tác viên nào hy vọng vào Thiên Chúa thì không sợ mất mát hay gian khổ. Đức tin và tình yêu của họ thêm sức cho họ khi đương đầu với thử thách, và gương mẫu của họ phấn khởi người khác hãy tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Họ nhận biết rằng mọi sự tốt lành đều xuất phát từ Thiên Chúa và họ sống theo một đường lối phản ánh sự thật này.
Thiên Chúa kêu gọi các linh mục đến một tiêu chuẩn cao hơn về sự tinh khiết, tình yêu, và hy sinh bản thân. Họ sẽ là những tấm gương sáng chói về sự thánh thiện, ban phát các bí tích và dẫn dắt đàn chiên với sự công bằng và khiêm nhường. Bởi sống theo đường lối này, họ đem ánh sáng cho Giáo Hội và vinh dự cho danh thánh Chúa, họ chu toàn bổn phận của mình là những người hướng dẫn tinh thần và mục tử.
Thiên Chúa nhấn mạnh đến phẩm giá và sự ưu tú đặc biệt của các linh mục. Ngay cả đức tính cá nhân của họ suy yếu, phẩm giá của họ vẫn không thay đổi vì phát xuất từ vai trò là thừa tác viên của Mình và Máu Chúa Kitô. Do đó, giáo dân phải luôn tôn trọng các linh mục, không vì linh mục, nhưng vì Thiên Chúa. Sự tôn trọng này phải kiên định, bất kể đức hạnh của linh mục, bởi vì thẩm quyền của họ đến từ Thiên Chúa.
Tất cả linh mục, dù đức hạnh hay không, có trách nhiệm phân phát các bí tích. Họ được coi như các thiên thần hộ thủ, họ gợi ra những tư tưởng tốt đẹp và dạy giáo lý của Thiên Chúa qua đời sống của họ. Nhân đức của họ làm cho họ xứng với tình thương và sự tôn trọng, và những lỗi lầm của họ nên bị ghét bỏ và cầu nguyện thay vì bị xét đoán.
Ngay cả khi các linh mục sống trong tội, tín hữu vẫn phải tôn trọng họ bởi vì họ phân phát kho tàng lớn lao là các bí tích. Tội của họ làm tín hữu bất mãn, nhưng phải hăng say cầu nguyện để họ sửa đổi thay vì xét đoán họ. Thiên Chúa ưa thích các linh mục sống nhân đức, nhưng nếu họ sa ngã, tín hữu có nhiệm vụ cầu nguyện cho họ, tin tưởng vào Thiên Chúa sẽ xét xử họ.
Những linh hồn công chính, sau khi chiến đấu với kẻ thù trong suốt cuộc đời, họ chết cách bình an. Lương tâm của họ vẫn yên ổn vì họ đã sống cách đoan chính, kềm hãm thú nhục dục, và yêu quý sự sám hối và cầu nguyện. Khi chết, họ đặt hy vọng vào sự thương xót của Thiên Chúa và Máu Chúa Kitô. Những mưu hại của quỷ để họ sợ hãi đều thất bại bởi vì các linh hồn này sạch tội và hướng đến tình yêu của Thiên Chúa.
Ngược lại, người có tội đối diện với cái chết trong tăm tối và khủng khiếp. Quỷ tố cáo họ, tội của họ giày vò, và sự bất trung của họ đưa họ đến sự tuyệt vọng. Không có sự thảo kính hay hy vọng nơi lòng thương xót của Thiên Chúa, họ bị đau khổ vì lương tâm tội lỗi và khiếp sợ vì những buộc tội của quỷ. Ngay cả khi lâm tử, Thiên Chúa ban cho họ sự thương xót nếu họ sám hối, nhưng quá khứ tội lỗi lâu dài và tính tự phụ thường làm cho điều này khó khăn.
Người công chính đối diện sự chết với niềm vui vì được nhìn thấy Thiên Chúa, trong khi người có tội cảm nghiệm sự mơ hồ và sợ hãi. Người công chính đã nhiệt tình sống bác ái và đức tin, và sự chết của họ là một chuyển đổi sang niềm vui đời đời. Người tội lỗi, bị mù quáng bởi sự ích kỷ và tội, họ đối diện với những hậu quả của hành động và sự công bằng của Thiên Chúa. Sự hiểu biết của họ về Kinh Thánh càng lớn lao thì sự đau khổ của họ càng gia tăng, vì họ nhận ra sự nặng nề của tội mình.
Sự tôn trọng các linh mục phải không dao động, nhìn nhận thẩm quyền của họ là do Thiên Chúa ban và các kho báu mà họ phân phát. Trong khi tội của họ phải bị ghét bỏ và cầu nguyện cho họ, sự xét xử được dành cho Thiên Chúa. Cái chết của người công chính và kẻ tội lỗi nêu cao sự tương phản rõ rệt giữa một đời sống đức hạnh và đời sống trong tội. Người công chính chuyển sang niềm vui vĩnh cửu, trong khi người có tội đối diện với sự đau khổ vì hành động của mình và vì sự công bằng của Thiên Chúa.
Thánh Catarina, bị choáng ngợi bởi tình yêu và ngập tràn sự buồn sầu mãnh liệt, lên tiếng với Thiên Chúa, ngợi khen Người là Sự Thiện Hảo Tối Cao và Bất Diệt. Chị nhận biết sự sáng và lửa yêu mến vô cùng của Thiên Chúa thiêu đốt mọi tội lỗi mà không tiêu hủy linh hồn này nhưng đổ đầy linh hồn với tình yêu không thể thỏa mãn được. Chị bày tỏ sự biết ơn vì sự mở mang trí óc và sự thương xót nhận được từ Thiên Chúa, chị nhận biết rằng mọi ơn sủng và quà tặng đến từ tình yêu vô bờ của Người.
Chị suy nghĩ về sự yếu đuối của loài người và lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa, nhớ lại Thiên Chúa đã sai Con duy nhất của Người đến chấm dứt tội của Adong và chữa chị khỏi sự chểnh mảng và ngu dốt. Chị biết ơn liều thuốc đắng và ngọt được Thiên Chúa ban cho, mà nó đã chữa lành sự yếu đuối của chị và soi sáng chị với ánh sáng của đức tin thánh thiện. Đức tin này cho thấy sự tuyệt hảo của ơn Chúa, phẩm giá của các thừa tác viên của Người, và tình yêu trổi vượt mà Thiên Chúa trưng ra cho mọi tạo vật thấy, nhất là cho những ai được xức dầu để phục vụ trong Giáo Hội thánh thiện.
Chị bày tỏ sự buồn sầu vì tội của những ai sống cách thảm hại, tương phản với đời sống nhân đức của những người được xức dầu của Chúa. Chị cảm thấy sầu khổ dữ dội về sự xúc phạm đến Thiên Chúa và những thiệt hại gây ra cho thế gian bởi các linh mục tội lỗi mà đúng ra họ phải là tấm gương nhân đức. Chị nhận biết sự xấu xa của chính mình và cầu xin Chúa thương xót. Chị xin ơn để không ngừng ao ước làm vinh danh Thiên Chúa và cứu độ các linh hồn.
Cảm tạ Chúa vì các ơn sủng đã ban cho chị nhiều hơn lời cầu xin, chị van xin Thiên Chúa hãy tỏ lòng thương xót thế gian và Hội Thánh. Chị xin Thiên Chúa hãy nhận lời cầu của các tôi tớ Người mà họ đang van xin sự thương xót, vì biết rằng sự thương xót là đặc tính của Thiên Chúa và không thể bị từ chối. Chị kêu cầu Thiên Chúa hãy mở rộng và làm mềm lại những tâm hồn cứng cỏi, không phải vì lợi ích cho kẻ tội lỗi nhưng vì tình yêu của các tôi tớ Chúa đang cầu nguyện cho họ. Chị nhấn mạnh đến sự quan trọng của Máu Chúa Kitô, đã tẩy xóa mọi tội lỗi và xin Máu này cứu các tạo vật của Thiên Chúa.
Thánh Catarina xin Thiên Chúa cho xuất hiện các mục tử tốt lành và thánh thiện trong Giáo Hội, mà nhân đức của họ sẽ chống lại sự hôi thối của tội lỗi. Chị nhắc nhở Thiên Chúa hãy nhớ lại lời hứa thương xót thế gian và cải tổ Giáo Hội qua những lời cầu nguyện và đời sống nhân đức của các tôi tớ Người. Chị thúc giục Thiên Chúa hãy ghé mắt thương xót nhìn đến nhân loại, chị nhận biết rằng chính tình yêu của Thiên Chúa đã giúp các tôi tớ Người dám gõ cửa và kêu nài sự thương xót. Chị kết luận bằng cách xin Thiên Chúa ban bánh sự sống, hoa quả của Máu Chúa Kitô, vì sự vinh hiển của Người và sự cứu độ các linh hồn.
Thánh Catarina nhận biết rằng sự vinh hiển của Thiên Chúa nằm trong sự cứu độ các tạo vật của Người chứ không phải để mặc họ trong sự bướng bình. Chị khẩn cầu quyền năng và lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa để xin Người ép buộc ý muốn của con người để họ biết khao khát ơn cứu độ. Chị kết thúc bởi viện dẫn quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa để xin Người tái tạo nhân loại trong ơn sủng qua lòng thương xót của Người và Máu Chúa Giêsu Kitô.