(Rick Warren, STĐMĐ., Mục Đích1: “Bạn Được Tạo Dựng Cho Niềm Vui Của Thiên Chúa” Ngày 8-14)
Như trong chương đầu tiên, chúng tôi đưa ra một số minh định ở những nơi có sự khác biệt giữa giáo huấn của Rick Warren trong Sống Theo Đúng Mục Đích và nhãn quan của Công giáo về cùng các vấn đề. Tiếp đến, nơi nào có sự tương đồng, tôi sẽ đưa ra lời xác nhận và mở rộng những quan điểm đó dựa trên những giáo thuyết và thực hành của Hội Thánh Công giáo.
Mục sư Rick Warren nhấn mạnh bản tính bất biến của Thiên Chúa, một Thiên Chúa toàn năng, nhân từ và yêu thương chú tâm đến mọi chi tiết cuộc đời chúng ta; Người đang điều khiển và có một dự định cho cuộc đời chúng ta cũng như sẽ cứu độ chúng ta (Ngày 14).
Những chân lý đó trở nên hiện thực với tôi vào một đêm tăm tối ở tu viện Biển Đức thuộc bang New York. Sau một sự kiện đặc biệt khó khăn và thử thách trong đời, tôi đã đến đó để thăm đức viện phụ khôn ngoan và uyên bác mà tôi quen biết. Sau khi nghe những vấn đề gai góc của tôi, người chỉ đơn giản nhận định, “Tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thì vĩnh hằng”. Không một lời khuyên hay lời an ủi dài dòng nào. Chỉ một lời xác nhận dịu dàng nhưng cương quyết về tình yêu không thay đổi mà Đấng Tạo Hóa dành cho chúng ta.
Tuy nhiên, một mầu nhiệm cần được trải nghiệm đi vào cuộc thảo luận. Ở điểm này, chúng tôi suy gẫm về Đức Giêsu, Con của Đức Maria, Đấng đã khóc đôi lần, cảm thấy bực bội vào những lần khác và đã cảm nhận nỗi buồn trong Vườn Ôliu. Tuy nhiên, là Con Thiên Chúa, Người cũng đã đi trên nước, chữa lành kẻ yếu đau và làm cho kẻ chết chỗi dậy. Chúng ta không bao giờ thấu hiểu trọn vẹn mầu nhiệm Đức Kitô đó với nhân tính và thiên tính trọn vẹn của Ngài.
Ở đây, kết luận thực tiễn được rút ra. Chúng ta không cầu xin thay đổi Thiên Chúa, Đấng không đổi thay, nhưng cầu xin để thay đổi chính chúng ta hoặc để chúng ta được thay đổi.
Như người Công giáo, tín đồ Hồi Giáo và Do Thái Giáo cùng chia sẻ niềm tin trong việc thờ phượng chung hằng tuần hay trong việc cầu nguyện riêng tư mỗi ngày, nên dường như họ đã có chung quan điểm ngay từ đầu và ngày càng tăng về Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu.
Có lẽ những người lãnh đạo Sêmít đã không nói rõ việc thừa nhận Đức Maria, nhưng sự kiện Đức Maria là một thiếu nữ Do Thái, và chắc hẳn rất chính thống trong việc sống đạo của người lại đặt nền tảng cho những thảo luận hỗ tương về tính tương đồng khả thi này.
Trong cuốn Mary Through The Centuries, Jaroslac Pelikan, giáo sư sử học đại học Yale, nhận định rằng: Maria là tên gọi thường được nhắc đến nhiều nhất trong thế giới Tây phương. Hơn nữa, ông xác nhận rằng: Maria đã được miêu tả trong nghệ thuật và âm nhạc nhiều hơn bất cứ phụ nữ nào khác trong lịch sử.
Với người Hồi giáo, Mary (“Maryan”) là tên gọi phụ nữ duy nhất được đề cập trong kinh Qur’ăn hay Koran. Ngoài ra, chương 19, một trong những chương dài nhất của kinh Koran, mô tả khá chi tiết về việc các thiên thần truyền tin cho Đức Maria vốn giống với trình thuật Tin Mừng Luca 1, 26-38.
Các vị khách thiên thần đã nói, “Thiên Chúa đã chọn bà và làm cho bà trở nên tinh tuyền và cao trọng hơn mọi người nữ... Danh Người là Messiah, Giêsu con của Maria”.
Hiện nay, nơi những người Kitô hữu, có một sự thay đổi lớn về lòng tôn kính Đức Maria.
Các Kitô hữu Công giáo Rôma luôn tôn kính Đức Maria là Mẹ Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Dù thừa nhận người chỉ là phàm nhân, không mang thiên tính, họ vẫn dâng lên người lời cầu xin quen thuộc này, “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con”.
Những người Tin Lành chính thống tiếp tục khước từ tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa” của Đức Maria lẫn hình thức sùng kính anh em Công giáo dành cho Ngài. Nhưng trong thời gian gần đây, ngày càng có nhiều vị lãnh đạo trong các giáo phái này bắt đầu đưa Đức Maria vào truyền thống đạo đức của mình. Tuy nhiên, việc tiếp cận của họ chỉ xem Đức Maria như là thánh nữ Maria, một người nữ thánh thiện đáng bắt chước chứ không phải làm Đấng trung gian cầu bàu cùng Đức Giêsu con của mình cho chúng ta.
Mục sư Rick Warren có thể nằm trong số đó. Ông dạy rằng, “Thiên Chúa đã chọn Đức Maria làm Mẹ Đức Giêsu, không vì tài năng, giàu có hay xinh đẹp, nhưng vì Đức Maria đã hoàn toàn phó thác cho Ngài” (Ngày 10).
Lòng yêu mến Đức Maria hồi sinh nơi một số người Công giáo vốn đã lớn lên với lòng sùng kính người cách mạnh mẽ, rồi từ bỏ nó trong những năm “giác ngộ” nhưng lại quay lại sùng kính người trong quảng đời còn lại.
Mary Gordon, tiểu thuyết gia lừng danh, nói về việc “Giải hòa với Đức Maria” trong bài báo có nhan đề Commonweal (1/15/82). Tác giả ước ao giải hòa với Đức Maria khi bà trở nên đứng tuổi hơn, đặc biệt khi bà cảm nhận thiên chức làm mẹ lần đầu tiên. Đối với Gordon, giờ đây, Đức Maria là mẫu gương “trong trắng, đau khổ và vinh quang” cho bà, và tiểu thuyết gia ấy nay có thể gắn bó với hình ảnh của mẹ Đức Giêsu.
Sally Cunneen, biên tập viên một tờ báo thần học và là tác giả của tác phẩm In Search of Mary, viết cho Tạp Chí Notre Dame (12/81), nhận định rằng: hình ảnh “quý bà đáng yêu mặc áo màu xanh” nơi Đức Maria dường như xa rời thực tế những năm đầu đời của bà, và như nhiều người Công giáo khác, bà giấu kín tràng hạt của mình.
Thế mà, hiện thời, bà Cunneen tin rằng, cũng chính những con người đó “đã bắt đầu thấy mẹ Đức Giêsu có một vai trò quan trọng trong đời sống thực tiễn của họ hơn là họ tưởng. Giờ đây, thật cần thiết để có một sự hiểu biết mới mẻ về Đức Maria, một sự hiểu biết vốn cho phép chúng ta chạy đến cùng Ngài”.
Nơi kinh Magnificat, Cunneen và một số người khác đã khám phá Đức Maria là một phụ nữ quyết đoán, biết quan tâm đến công bằng xã hội. Các cụm từ trong lời kinh đó, “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường... Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng” đã làm ngân vang ước vọng của những nhà hoạt động đương thời, những người đang tìm kiếm những thay đổi cơ cấu để làm cho thế giới này trở nên tốt đẹp hơn nhờ một nền hòa bình đích thực.
Nhiều thập niên trong suốt thế kỷ qua, những người Công giáo Rôma đã thêm Kinh Mân Côi vào cuối Thánh lễ để cầu xin cho nước Nga trở lại và chủ nghĩa cộng sản kết thúc. Nhiều năm trôi qua, tưởng chừng như những lời cầu xin đó không được đáp ứng. Rồi đột nhiên, toàn bộ đế chế cộng sản dường như sụp đổ và ý thức hệ này đã mất đi bao quyền lực và sức mạnh của nó.
Phải chăng Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu vốn được cả người Kitô hữu lẫn người Hồi Giáo tôn kính như chúng ta đã mô tả (và trong một nghĩa nào đó, bởi cả những anh em Do Thái Giáo) đã hóa giải hận thù và bạo lực; bằng cách ấy, Mẹ mang tình yêu và hòa bình đến cho thế giới rối rắm này.
Thờ phượng hằng tuần là một thực hành phổ biến nơi những người Kitô hữu, Do Thái Giáo và Hồi Giáo. Đối với hầu hết những người Kitô hữu, ngày Sabát được giữ vào ngày Chúa nhật khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết. Với người Do Thái, việc giữ ngày Sabát diễn ra từ chiều ngày thứ Sáu lúc mặt trời lặn đến cùng lúc vào chiều ngày thứ Bảy. Với người Hồi Giáo, cách chung, việc thờ phượng cộng đồng diễn ra ở một đền thờ vào khoảng trưa ngày thứ Sáu.
Các tín đồ Kitô, Do Thái và Hồi Giáo đều chia sẻ một lý tưởng chung: việc ca khen và cảm tạ Thiên Chúa phải tạo nên một chiều kích trọng yếu trong đời sống tôn giáo của họ.
Những người Hồi Giáo phải ngừng công việc năm lần mỗi ngày, quỳ gối, trán chạm đất hướng về đền Mecca để lặp lại lời kinh salat. Lời kinh hướng lên Đức Allah, Đấng Ban Ân Lộc, Đấng Nhân Từ, Thiên Chúa toàn năng, siêu việt và thánh thiêng duy nhất. Những buổi cầu kinh này diễn ra vào lúc bình minh, quá ngọ, xế chiều, lúc chiều tà, lúc chập tối và vào ban đêm.
Cách đây không lâu, tại quầy lưu niệm một khách sạn gần sân bay Toronto, khi thấy cổ áo giáo sĩ Công giáo của tôi, một nhân viên bán hàng đã tự hào giới thiệu mình là một người Hồi Giáo. Rồi lập tức, ông ta đến một chiếc tủ, cất chiếc chiếu cầu nguyện của ông và nói rằng, các khách hàng rất thông cảm khi ông tạm dừng công việc của mình để đọc những lời ca khen và cảm tạ đã được định.
Một số tín đồ Do Thái đạo đức cố đọc 100 lần mỗi ngày kinh berakah, kinh ngợi khen hay chúc tụng Thiên Chúa vì những quà tặng lớn nhỏ khác nhau Người ban; chẳng hạn sức khoẻ được phục hồi, nước rửa và thức ăn.
Trong Tân Ước, các Kitô hữu đọc thấy rằng, Đức Giêsu thường cảm tạ Chúa Cha. Đức Kitô cũng dạy những ai theo Người tầm quan trọng của việc tri ân Đấng ban phát tất cả các quà tặng qua câu chuyện nổi tiếng mười người phong hủi được chữa lành nhưng chỉ một người trở lại bày tỏ lòng biết ơn. Đối với các truyền thống Kitô Giáo nhấn mạnh Bí tích Thánh Thể, chẳng hạn người Công giáo với Thánh lễ, thì gương mẫu của Đức Giêsu tại buổi Tiệc Ly là nòng cốt trong niềm tin và thực hành của họ. Như đã được ghi lại trong ba Tin Mừng nhất lãm và trong thư thứ nhất thánh Phaolô gửi giáo đoàn Côrintô, Đức Kitô “tạ ơn” trước khi truyền phép bánh và rượu. Từ ngữ “thánh thể” lấy từ tiếng Hy lạp có nghĩa là tạ ơn.
Hồng Y Joseph Bernardin, nguyên là Tổng Giám Mục của Tổng Giáo phận Chicago, đã viết Gift of Peace, những suy tư của người về ba trải nghiệm khác nhau trong quảng đời còn lại của mình. Các kinh nghiệm bao gồm cuộc chiến đấu thành công với bệnh ung thư; việc bị tố cáo sai lầm nhưng rất công khai rằng, người gạ gẫm một chủng sinh trẻ khi ở Cincinnati; cuộc vật lộn thứ hai với căn bệnh hiểm nghèo đó, và rốt cuộc đưa người đến cái chết.
Chủ đề trọng tâm của quyển sách này, một thái độ nảy sinh từ ba sự kiện đau thương đó, là nhu cầu phó mình, tùng phục và phó mặc hoàn toàn cho sự lo liệu của Thiên Chúa trong những hoàn cảnh như vậy. Đời sống cầu nguyện sâu lắng giúp cho người có thể làm được điều này và mang lại bình an lớn lao cho vị lãnh đạo xuất chúng này.
Vừa mới đây, theo yêu cầu của gia đình, tôi viếng thăm một người đàn ông quá tuổi trung niên đang nằm viện vì suy gan. Ông đã nghỉ hưu sau vài thập niên làm hiệu trưởng ở một trường công tiểu học. Trong suốt cuộc viếng thăm, biết rằng cái chết đã cận kề, ông đã bày tỏ ước ao hay nỗ lực phó thác thiêng liêng “phó mình cho bàn tay yêu thương của Thiên Chúa”, cũng những lời mà Hồng Y Bernardin đã dùng.
Tôi hỏi liệu ông có quan tâm đến Bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân của Hội Thánh không. Khi người đàn ông yếu ớt này gật đầu đồng ý, tôi bắt đầu nghi thức với việc đọc Lời Chúa và lời nguyện, yên lặng đặt tay và xức dầu thánh trên trán và tay của ông. Vài ngày sau, ông qua đời.
Trong giờ thăm viếng và tang lễ, hơn sáu thành viên trong gia đình nhận định rằng, dường như Bí tích này đã mang lại cho người thân của họ một sự bình an lớn lao biết bao. Thỉnh thoảng, người bệnh đã kể cho họ nghe rằng, chuyến viếng thăm của chúng tôi và một cách ý nghĩa, nghi thức xức dầu đã trợ lực ông trong tiến trình buông mình và phó thác cho Thiên Chúa.
Tương tự, khi hoang mang lo sợ đối mặt với tiến trình phẩu thuật động mạch cảnh, một phụ nữ ở tuổi trung niên đã cảm nghiệm được khả năng mang lại bình an của Bí tích dành cho bệnh nhân. Hai người bạn đã mang bà vào nhà thờ, và sau khi vị linh mục đã ban bí tích, từng người một đã đặt tay trên đầu người phụ nữ. Rồi vị linh mục xức dầu trên trán và bàn tay người bệnh và người cũng xức dầu thánh dọc cổ bà, nơi vết cắt sẽ được tiến hành.
Ngay lập tức, bà đã cảm nghiệm được sự bình thản từ những nỗi sợ hãi. Và hai tuần sau, khi trở lại nhà thờ, bà thuật lại lời nhận xét của bác sĩ phẩu thuật rằng, ông chưa bao giờ chứng kiến một vùng vết thương nào mau lành đến thế.
Chúng ta thường sử dụng thuật ngữ ‘cử hành’ khi nói đến các nghi thức thánh. Rồi nó cũng trở nên khá tự nhiên khi người ta so sánh những sự kiện cử hành thiêng liêng này với những sự kiện trần tục như sinh nhật, lễ cưới và ngày kỷ niệm. Các sự kiện trần tục này có khuynh hướng tạo nên một cảm giác hoan hỷ, lạc quan. Việc áp dụng mô thức này đồng nhất trong việc thờ phượng lại tạo nên những vấn đề nan giải.
Hai ví dụ khá khác biệt có thể làm rõ điểm này.
* Vào Chúa nhật Phục Sinh, ban phụng vụ của một giáo xứ Công giáo nọ muốn cử hành biến cố phục sinh của Đức Kitô một cách sáng tạo. Để hoàn thành ý định này, họ cung cấp những chiếc bong bóng căng phồng sặc sỡ cho đoàn giáo dân đang kéo đi, mỗi chiếc chứa một câu chào mừng những ai cuối cùng sẽ nhận nó. Tất cả họ băng qua những con đường, đến một bãi đậu xe và theo một tín hiệu vang lên, họ thả những chiếc bong bóng.
Những chiếc bong bóng bay lên tạo nên một hình ảnh tráng lệ, nhưng không may, làm ô nhiễm môi trường và có lẽ giết một vài con chim ăn phải chúng. Những người tổ chức khoan khoái trầm trồ rằng: đó quả là một buổi cử hành đích thực.
* Khi người vợ trẻ, mẹ của ba đứa con dưới năm tuổi chết bất đắc kỳ tử ngoài ý muốn lúc đang ngủ, nỗi đau của người chồng, gia đình và cộng đồng của bà thật lớn lao. Một đám đông chật ních tập trung ở nhà thờ để tham dự Thánh lễ an táng của bà. Đó cũng là việc cử hành biến cố phục sinh của Đức Kitô nhưng khó có thể có một cảm giác hân hoan và vui tươi được.
Một cách thiết yếu, việc cầu nguyện cá nhân và các hình thức thờ phượng là những trải nghiệm đức tin. Đức tin của chúng ta có thể tràn dâng thành cảm xúc, nhưng không cần thiết. Một Thánh lễ tràn ngập niềm tin có thể thiếu yếu tố cảm xúc. Ngược lại, một Thánh lễ dâng tràn xúc cảm có thể thiếu bất kỳ yếu tố đức tin trọng yếu nào. Tuy nhiên, Thiên Chúa thì rộng lượng hơn cả tầm hiểu biết của chúng ta. Những buổi cử hành đức tin cũng thường có một nội dung cảm xúc vui sướng và hoan lạc. Vì thế, khi thiếu vắng những cảm xúc đó, như trong ví dụ đám tang, việc cầu nguyện và thờ phượng vẫn có thể trở nên những sự kiện đức tin phong phú.
Khía cạnh then chốt của việc cầu nguyện cá nhân và thờ phượng cộng đồng dành cho các Kitô hữu là một cuộc gặp gỡ, hội ngộ với Đức Giêsu trong niềm tin.
Khi mới dấn thân vào con đường cầu nguyện nghiêm túc và kiên định, người ta có thể thấy con đường đó bằng phẳng với những ủi an thường hay xảy ra. Có thể đó là cách thức Thiên Chúa động viên những người vừa mới bắt đầu.
Nhưng những người thực hành cầu nguyện đều đặn lại thường xuyên cảm nhận những khoảng thời gian khô khan và tăm tối. Những ủi an khả giác biến đâu mất hoặc một tường thành không thể xuyên qua được dựng lên, và dường như nó ngăn chặn mọi sự tiếp xúc với Thiên Chúa.
Rõ ràng những đêm tối của giác quan và linh hồn có thể tỏ ra khá rối ren. Tôi đã làm điều gì sai? Tôi đang cầu nguyện theo một cách thức sai lầm? Thiên Chúa đã bỏ tôi?
Câu trả lời cho những câu hỏi nghiêm túc đó là “không”. Đây là thời gian thử thách hay thanh luyện; đức tin phải được thanh luyện bằng lửa cũng như kim loại quý được tẩy bằng lửa và bằng sức nóng của lò công nghiệp.
Các nhà linh hướng như thánh Gioan Thánh Giá (+1582) và Têrêxa thành Avila (+1591) đã xếp loại và mô tả các hiện tượng thiêng liêng này. Các người gọi chúng là Đêm Tối Của Giác Quan và Linh Hồn hay là Các Giai Đoạn Thanh Luyện, Giác Ngộ và Nhiệm Hiệp.
Phong Trào Trải Nghiệm Hôn Nhân vốn rất phổ biến vào thập niên 60, 70 đã theo một phương pháp tương tự với đời sống hôn nhân (và đời sống linh mục và tu sĩ nữa). Các đôi bạn, các linh mục, nữ tu thử cảm nhận các giai đoạn Lãng Mạn, Vỡ Mộng và Hoan Hỷ trong đời sống. Đây không phải là những khoảnh khắc cố định, tự động hay theo thứ tự thời gian, nhưng việc ý thức chúng có thể giải toả lo lắng của người ta và biến chúng thành những cơ hội để trưởng thành.
Hồng Y Gioan O’Connor đã trải qua giai đoạn tăm tối thiêng liêng khủng khiếp khi người đang phục vụ với tư cách tuyên úy ở Okinawa. Niềm tin của người vào các khía cạnh căn bản nhất của đời sống - Thiên Chúa, Hội Thánh, chức linh mục, Bí tích Thánh Thể - đột nhiên biến mất.
Trong vài tháng, cuối cùng thì người vẫn cầu nguyện trong sự tăm tối thiêng liêng tuyệt đối đó, mong manh bám víu các chân lý này bằng các đầu ngón tay.
Rốt cuộc, thời kỳ đen tối, đau khổ và khô khan qua đi và một sự bình an sâu xa xâm chiếm người. Đức tin của người đã không bao giờ dao động một lần nữa.