Giáo Huấn của Chúa cho các Dân ngoại bởi Mười Hai Tông Đồ, hay Giáo huấn của Mười Hai Tông Đồ, được biết đến vào cổ thời, hay cách gọi đơn giản hơn là Điđakê (Giáo Huấn), mà tên gọi này thường được sử dụng cho đến ngày hôm nay. Tài liệu này là một trong những tài liệu thú vị và phức tạp nhất kể từ khi xuất hiện vào thời giáo hội sơ khai cho tới nay. Mặc dù tựa đề được biết đến từ những trích dẫn của các tác giả cổ thời (một vài người đã dùng nó như là Kinh Thánh1) không một bản sao chép nào tồn tại cả cho đến 1873, khi Bryennios phát hiện một bản thảo chứa đựng đầy đủ bản văn của Điđakê. Ông đã cho xuất bản nó vào năm 1883. Kể từ đó tác phẩm được các nhà nghiên cứu để ý đến. Tuy nhiên tất cả những lưu tâm ấy chỉ là những thông tin tối thiểu mà thôi chẳng hạn ai đã viết, được viết ở đâu và viết khi nào vẫn là một bí ẩn như lần đầu tiên nó được khám phá ra.
Tác phẩm này có nội dung về hai con đường: (1) sự hướng dẫn về “Hai con đường” (đoạn 1.1 – đoạn 6.2) và (2) một cẩm nang về phẩm trật và thực hành của giáo hội (đoạn 6.3 – đoạn 16.8). Dưới ánh sáng của đoạn 7.1, chất liệu về “Hai con đường” xuất hiện có mục đích như là một đúc kết hướng dẫn căn bản về đời sống Kitô hữu để dạy cho những ai chuẩn bị lãnh nhận thanh tẩy và gia nhập giáo hội. Trong hình thức hiện tại của tác phẩm, tác phẩm tiêu biểu cho việc Kitô hóa hình thức phổ biến của người Do Thái về việc hướng dẫn đời sống luân lý. Nội dung tương tự cũng được tìm thấy trong một số tác phẩm Kitô giáo khác từ thế kỷ thứ nhất đến khoảng thế kỷ thứ năm, bao gồm Thư của Barnabas (Epistle of Barnabas), Sách Giáo lý các Tông đồ (Didascalia),2 Cuốn Những Lễ nghi Giáo Hội Tông Truyền (Apostolic Church Ordinances), cuốn Tổng Luận về Giáo Lý (Summary of Doctrine), cuốn Những Định Chế Tông Truyền (Apostolic Constitutions), cuốn Cuộc Đời của Schnudi (Life of Schnudi), và Về Giáo Huấn Của Các Tông Đồ (On the Teaching of the Apostles) hay là Giáo Lý (Doctrina), một vài tác phẩm trên có liên quan đến Điđakê. Tuy nhiên, những mối tương quan giữa các tài liệu khác nhau khá phức tạp và còn nhiều điều cần phải tiến hành nghiên cứu. Những kết nối giữa Điđakê và Thư của Barnabas đều đã được lưu tâm thích đáng. Hơn nữa tác phẩm này phụ thuộc hoàn toàn vào tác phẩm kia, dường như, có lẽ không chắc là cả hai đều phụ thuộc vào một nguồn tài liệu chung.3
Phần thứ hai bao gồm những chỉ dẫn về thức ăn, nghi thức rửa tội, việc ăn chay, cầu nguyện, nghi thức cử hành lễ Tạ Ơn, và nhiều chức vụ và vị trí lãnh đạo. Hơn nữa là việc cung cấp thêm chứng cớ sớm nhất về cách thức rửa tội khác cho việc dìm xuống nước, tác phẩm thuật lại những lời cầu nguyện tạ ơn mà các Kitô hữu đã biết đến từ trước và một hình thức về Lời Cầu Nguyện của Chúa hoàn toàn tương tự được tìm thấy trong Tin Mừng theo thánh Matthêu. Có một mối bận tâm phân biệt việc thực hành Kitô giáo với lòng sùng đạo của Do Thái giáo và để ngăn chặn những lạm dụng lòng hiếu khách của giáo hội. Tài liệu kết thúc với một mục tóm kết ngắn gọn mang tính khải huyền đã có nhiều điểm chung với chủ để Khải huyền của Tin Mừng Nhất Lãm (x. Mc 13; Mt 24-25; Lc 24).
Thời gian và địa điểm soạn tác
Một khoảng thời gian khá dài cũng đáng gây ngạc nhiên, trải rộng từ năm 50 CN đến thế kỷ thứ ba hoặc trở về sau nữa, đã được giả định cho tác phẩm này. Việc xác định thời gian cho tác phẩm Điđakêlà điều khó khăn bởi thiếu chứng cớ chắc chắn, và sự thật tác phẩm này là một tài liệu được tập hợp lại với nhau. Vì vậy, thời gian soạn tác khi (những) tác giả vô danh kết nối tài liệu này (chú ý sự chuyển tiếp hơi ngượng ép trong đoạn 6 câu 2 – 3) với những chất liệu cựu trào nền tảng là dấu chỉ cho thấy khác biệt với thời đại bấy giờ bởi những chất liệu được sử dụng. Tác phẩm Điđakê có thể đã dừng lại ở hình thức hiện thời của nó muộn hơn năm 150, mặc dù một thời gian soạn toán được căn nhắc sớm hơn ở cuối thế kỷ thứ nhất dường như thích hợp hơn. Tuy nhiên, những chất liệu được tác phẩm dựa vào để biên soạn phản ánh tình trạng giáo hội ở một thời đại sơ khai. Những kinh nguyện tương đối giản dị, mối lưu tâm còn đang tồn động về sự khác biệt giữa thực hành Kitô giáo với những nghi thức Do Thái giáo (đoạn 8.1), và đặc biệt là hình thành phẩm trật giáo hội – chú ý phẩm trật hai thành phần gồm các giám mục và các phó tế (x. Pl 1,1) và vẫn còn tồn tại những tông đồ và những ngôn sứ lưu động bên cạnh một cơ cấu cố định – phản ánh một thời đại gần hơn với thời đại của thánh Phaolô và thánh Giacôbê (chết vào những năm 60 SCN) hơn thời của thánh Inhaxiô (chết sau năm 110 một chút).
Ai Cập hoặc Syria thường được nhắc đến nhiều nhất như những nơi bắt nguồn của tác phẩm Điđakê. Chứng cứ này chỉ là gián tiếp và được suy diễn, làm thêm rối rắm bởi tính chất phức tạp của tác phẩm. Việc ám chỉ đến “những ngọn núi” (đoạn 9.4) có vẻ giả định đến một tỉnh thành của người Syria hoặc là người Syro-Palestine. Tuy nhiên, việc biên soạn cuối cùng có lẽ đã diễn ra ở một nơi khác.
1. Có hai con đường: một con đường sống và một con đường chết, và có sự khác biệt một trời một vực giữa hai con đường.
2. Đây là con đường sống: Trước tiên, “ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa, Đấng tạo thành ngươi”; thứ đến, “hãy yêu người thân cận như chính mình ngươi”; 4 và “bất cứ điều gì ngươi không muốn họ xảy đến cho ngươi, ngươi đừng làm cho kẻ khác.”5
3. Đây là huấn giáo cho những huấn lệnh này: “Hãy chúc lành cho những ai nguyền rủa ngươi”,6 và “hãy cầu nguyện cho các kẻ thù ngươi”; “hãy giữ chay cho những kẻ bách hại ngươi”. “Vậy có công chi, khi ngươi yêu những người yêu ngươi không? Những người Dân ngoại chẳng lẻ không làm như ngươi sao?” Thế nhưng, “ngươi hãy yêu những người ghét ngươi”7 và ngươi sẽ không còn một mối thù ghét nào nữa.
4. Hãy tránh xa những ham muốn xác thịt.8 “Nếu ai vả má phải ngươi, thì hãy đưa luôn má kia”,9 và người sẽ nên hoàn thiện.10 Nếu ai “ép người đi một dặm, thì hãy đi với nó hai dặm”; “nếu ai cướp áo khoác ngoài, thì hãy đưa luôn áo trong”; “ai lấy tài sản ngươi, thì đừng khiếu nại”;11 vì ngươi không có đủ khả năng như thế đâu.
5. “Ai xin, hãy cho và đừng đòi hoàn trả,”12 vì Cha trên trời muốn những món quà của Người sẽ được trao ban cho mọi người. Phúc cho người theo huấn lệnh, vì một người như vậy là kẻ vô tội. Khốn cho ai lãnh nhận: nếu ai vì nhu cầu mà lãnh nhận, thì người đó là kẻ vô tội, nhưng ai mà không có nhu cầu, thì sẽ phải giải thích tại sao và mục đích về việc người đã lãnh nhận, và khi đã bị giam giữ, sẽ bị cật vấn về việc người ấy đã làm, và sẽ không ra khỏi nơi đó cho đến khi người ấy phải trả đến đồng xu cuối cùng.13
6. Thế nhưng cũng có lời chép về việc này rằng: “Hãy giữ lấy tiền bố thí trong tay, cho đến khi ngươi biết rõ ai mà ngươi sẽ cho họ”.14
1. Huấn lệnh thứ hai của huấn giáo là:
2. “Ngươi chớ giết người; ngươi chớ ngoại tình”; ngươi chớ làm chuyện đồi bại với các thiếu niên; ngươi chớ quan hệ trác táng; “ngươi chớ trộm cắp”; người chớ làm chuyện ma thuật; ngươi chớ dính líu tới phù thủy; ngươi chớ phá thai và chớ sát hại trẻ sơ sinh. “Ngươi chớ tham của cải người lân cận.
3. Ngươi chớ bội thề; ngươi chớ làm chứng gian”;15 ngươi chớ nói lời ác độc; ngươi chớ giữ mối thâm thù với ai cả.
4. Ngươi chớ có hai ý trong tư tưởng cũng như trong lời nói, vì “lời hai ý” là một cạm bẫy nguy hại.
5. Lời nói của ngươi chớ gian dối cũng như vô nghĩa, nhưng được chứng thực bằng việc làm.
6. Ngươi chớ tham lam, chớ hám lợi, cũng chớ giả hình, chớ thâm độc, chớ kiêu căng ngạo mạn. Ngươi chớ ngấm ngầm bày mưu lập kế để hại người thân cận.
7. Ngươi chớ giận ghét ai; ngược lại ngươi hãy khiển trách họ, cầu nguyện nhiều cho họ và hơn thế nữa, ngươi hãy yêu họ hơn chính mình ngươi.
1. Hỡi con, hãy tránh tất cả mọi loại xấu xa và tất cả những gì có vẻ như thế.
2. Chớ giận dữ, vì cơn giận sẽ đưa đến việc sát nhân. Chớ ganh ghét, chớ gây gổ sinh sự cũng chớ nóng nảy hung hăng, vì tất cả những điều ấy đưa đến việc sát nhân.
3. Hỡi con, chớ chạy theo sự dâm dật, vì sự dâm dật sẽ đưa con đến việc thông dâm. Chớ nói lời tục tĩu cũng đừng liếc mắt, vì tất cả những điều ấy đưa đến việc ngoại tình.
4. Hỡi con, chớ tham dự vào những chuyện bói toán,16 nó sẽ dẫn con đến việc thờ ngẫu tượng. Chớ là thầy bỏ bùa, thầy tử vi, cũng như thầy phù thủy, thậm chí chớ tìm cách nhìn xem17 những điều ấy, vì chúng chỉ đưa đến việc thờ ngẫu tượng.
5. Hỡi con, chớ nói dối nói gian, vì lời dối gian sẽ đưa đến trộm cắp. Chớ tham lam của cải cũng đừng tự cao tự đại, vì tất cả chúng sẽ đưa đến trộm cắp.
6. Hỡi con, chớ cằn nhằn càu nhàu, vì nó đưa đến lời phạm thượng. Chớ kiêu căng ngạo mạn hay dã tâm, vì chúng sẽ đưa đến những chuyện phạm thượng.
7. Thay vào đó, hãy khiêm nhường, vì “khiêm nhường sẽ lãnh lấy đất nước làm cơ nghiệp.”18
8. Hãy nhẫn nại, thương xót, ngay thơ, ôn hòa và tốt bụng, trân trọng tuân giữ những giáo mà con đã được nghe.
9. Chớ tự nâng mình lên, cũng chớ để tâm hồn con tự cao tự đại. Tâm hồn con chớ kết giao với hạng kiêu căng ngạo mạn, nhưng hãy sống theo người công chính và khiêm nhường.
10. Hãy đón nhận những biến cố xảy đến cho con như những điều thiện hảo, hãy biết rằng chẳng có điều gì thoát khỏi Thiên Chúa.
1. Hỡi con, ngày đêm luôn hãy nhớ đến Đấng rao giảng Lời Thiên Chúa cho con,19 và tôn kính Người như Chúa của mình. Vì nơi nào bản tính của Đức Chúa được rao giảng, nơi đó Người sẽ hiện diện.
2. Hơn nữa, mỗi ngày con hãy tìm kiếm sự hiện diện của các thánh, để con có thể tìm thấy đỡ nâng trong lời của các ngài.
3. Con chớ gây nên mối chia rẽ, nhưng hãy đem lại bình an giữa những người tranh chấp. Con hãy phân xử công minh; con chớ tỏ ra thiên vị ai khi khiển trách những lỗi lầm.
4. Con chớ lưỡng lự do dự về những quyết định của con.20
5. Chớ chìa tay ra với ai để chỉ biết đón nhận, nhưng hãy biết co lại để ban phát.
6. Nếu như con có gì tư hữu bởi công khó đôi tay của con làm ra, thì hãy ban phát để chuộc lại tội lỗi của mình.
7. Con chớ lưỡng lự để ban phát, cũng chớ cằn nhằn càu nhàu khi ban phát, vì một ngày nào đó con sẽ nhận ra ai mới thực sự là người ban các phần thưởng.
8. Con chớ ngoảnh mặt làm ngơ trước người nghèo khổ; nhưng hãy chia sẽ mọi thứ với anh em, và chớ tuyên bố chúng thuộc về con.21 Vì nếu con được chia sẻ gia sản bất hoại, thì hãy biết làm như thế nào với những thứ chóng hư hoại.
9. Con chớ quá nhẹ tay22 với con trai, con gái mình, nhưng ngay từ nhỏ con hãy dạy chúng biết kính sợ Thiên Chúa.
10. Con chớ ra lệnh cho tôi trai tớ gái, là những người cùng đặt hy vọng vào Thiên Chúa như con, khi con còn đang giận, vì sợ rằng chúng sẽ ngừng kính sợ Thiên Chúa, Đấng ngự trên hết mọi người. Thế nên, đừng mời người ta căn cứ vào phẩm giá, nhưng hãy mời người ấy mà tinh thần đã được chuẩn bị.
11.và các người tôi tớ hãy tùng phục chủ của mình các ng với lòng kính trọng và kính sợ, như họ là một hình ảnh của Thiên Chúa.
12. Con hãy ghét những gì đạo đức giả, và tất cả những gì không đẹp lòng Thiên Chúa.
13. Con chớ bỏ qua huấn lệnh của Thiên Chúa, nhưng hãy tuân giữ những gì con đã lãnh nhận, cũng không thêm không bớt điều gì.23
14. Trong cộng đoàn, con hãy xưng thú lỗi lầm của con, và chớ cầu nguyện với lương tâm xấu. Đó là con đường sống.
1. Trái lại, đây là con đường chết: trước tiên, nó là xấu xa và đầy sự nguyền rủa: giết người, ngoại tình, thèm muốn, thông dâm, trộm cắp, thờ ngẫu tượng, thực hành ma thuật, phù thủy, cướp đoạt, chứng gian, ích kỷ, xảo trá, lừa dối, kiêu căng ngạo mạn, độc ác, ngạo nghễ, hám lợi, ăn nói tục tĩu, nghen ghét, trơ tráo, kiêu ngạo, khoe khoang.
2. Đó là con đường của kẻ bách hại người lương thiện, của kẻ ghét chân lý, ham thích dối trá, không biết phần thưởng của công chính, xa lánh điều thiện hảo cũng như xa lánh phân xử chân chính, không nhạy cảm với điều lành mà là với sự dữ, xa lạ với sự dịu hiền và kiên nhẫn, ưa chuộng hão huyền, chạy theo lợi lộc, chẳng thương xót với người nghèo, không ưu tư đến người kiệt sức, chẳng muốn biết đến những kẻ hành hạ người khổ, những kẻ giết trẻ em, tàn phá công trình của Thiên Chúa, hất hủi người cùng khổ, đàn áp người khổ cực, bảo vệ người giàu, thẩm phán bất công với người nghèo, kẻ tội lỗi. Hỡi con, con hãy tránh xa tất cả những điều ấy.
1. Con đừng để ai dẫn con lạc xa con đường của Huấn giáo, vì một người như thế chỉ dạy con không còn biết lưu tâm đến Thiên Chúa.
2. Nếu con thật sự có thể vác trọn vẹn ách của Thiên Chúa, thì con sẽ nên hoàn thiện. Còn nếu con không thể, thì con làm được điều gì mà con có khả năng.
3. Về thức ăn, con có thể ăn những gì con dùng được, nhưng tuyệt đối phải kiêng cữ những thứ thịt đã cúng cho các ngẫu tượng, vì đó cũng dính líu với việc thờ phượng các thần chết.
1. Về việc Thánh Tẩy, hãy rửa tội như thế này: sau khi con đã khảo hạch24 [những người sẽ được rửa tội] tất cả những điều ấy, thì hãy rửa tội “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”25 trong nước chảy luân chuyển.26
2. Nếu con không có nước chảy luân chuyển, thì hãy rửa tội trong một nước khác, và nếu không rửa được bằng nước lạnh, thì hãy rửa bằng nước ấm.27
3. Nếu con không có nước như vừa nói trên, thì hãy đổ nước ba lần trên đầu, “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.”28
4. Trước khi rửa tội, “người rửa tội”29 và “người sẽ được rửa tội”30 hãy giữ chay; cũng như bất kỳ những ngườ khác mà họ có thể. Cũng thế, con hướng dẫn người sẽ được rửa tội hãy giữ chay tịnh trong vòng một hay hai ngày trước đó.
1. Đừng thực hiện chay tịnh của anh em cùng lúc với kẻ giả hình. Họ ăn chay ngày thứ Hai và ngày thứ Năm trong tuần; còn anh em hãy ăn chay ngày thứ Tư và ngày thứ Sáu.
2. Anh em cũng đừng cầu nguyện như những kẻ giả hình. Thay vào đó, “hãy cầu nguyện như thế này”, như Chúa đã truyền trong Phúc Âm của Người:
Lạy Cha chúng con ở trên trời,
xin làm cho danh Cha cả sáng,
triều đại Cha mau đến,
ý Cha thể hiện
dưới đất cũng như trên trời.
Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày,
và xin tha tội cho chúng con
như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con;
và đừng để chúng con sa chước cám dỗ,
nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ;31
vì uy quyền và vinh quang là của Cha đến muôn đời!
3. Hãy cầu nguyện như thế ba lần trong ngày.
1. Về vấn đề tiệc Thánh Thể,32 hãy tạ ơn như thế này.
2. Trước tiên, liên quan đến chén:
Lạy Cha, chúng con tạ ơn Cha
vì cây nho thánh thiện của Đavít, tôi tớ Cha,
mà Cha đã mặc khải cho chúng con
qua Đức Giêsu, Tôi Tớ Cha.
Chúc tụng Cha được vinh hiển đến muôn đời!
3. Đoạn, liên quan đến bánh đã được bẻ ra:
Lạy Cha, chúng con tạ ơn Cha
vì sự sống và sự hiểu biết
mà Cha đã mặc khải cho chúng con
nhờ Đức Giêsu, Tôi Tớ Cha.
Chúc tụng Cha được vinh hiển đến muôn đời!
4. Cũng như chiếc bánh đã bị bẻ ra đây được gieo rắc trên khắp đồi núi, và giờ được thu lượm và trở thành một tấm bánh, thì xin cho Hội Thánh Cha từ tận cùng trái đất được quy tụ trong Nước Cha; vì vinh quang và uy quyền là của Cha nhờ Đức Giêsu Kitô đến muôn đời.
5. Đừng để ai ăn và uống trong Tiệc Tạ Ơn của anh em ngoại trừ những ai được Thánh Tẩy trong Danh Chúa, vì đây là điều mà Chúa đã phán: “Không được đưa của thánh cho chó”.33
1. Sau khi anh em đã ăn uống [trong Tiệc Tạ Ơn] xong, thì hãy tạ ơn như sau:
2. Lạy Cha chí thánh, chúng con tạ ơn Cha
vì Danh Thánh Cha
mà Cha đã ngự vào lòng chúng con,
và tạ ơn Cha vì sự hiểu biết, đức tin và sự bất tử
mà Cha đã mặc khải cho chúng con
nhờ Đức Giêsu, Tôi Tớ của Cha;
[chúc tụng] Cha được vinh quang đến muôn đời!
3. Kính lạy Thầy toàn năng, Chính Cha đã tác tạo vạn vật vì Danh Thánh Cha,
và đã ban của ăn thức uống cho loài người hưởng dùng,
để họ tạ ơn Cha;
còn chúng con, Cha đã ưu đãi bằng của ăn thức uống thần linh,
và sự sống đời đời nhờ [Đức Giêsu], Tôi Tớ của Cha.34
4. Trên hết tất cả chúng con tạ ơn Cha vì Cha là Đấng cao cả, [chúc tụng] Cha được vinh hiển đến muôn đời!
5. Lạy Chúa, xin nhớ đến Hội Thánh Chúa,
xin giải thoát Hội Thánh khỏi mọi sự dữ
và kiện toàn trong tình yêu của Chúa;
Xin qui tụ Hội Thánh đã được thánh hiến,
từ bốn phương trời vào trong Nước Chúa,
mà Chúa đã chuẩn bị sẵn cho;
vì uy quyền và vinh quang là của Chúa đến muôn đời!
6. Ước gì ân sủng của Chúa mau đến, và trần gian này qua đi!
Chúc tụng Thiên Chúa của nhà Đavít.
Nếu ai nên thánh, thì người ấy hãy đến;
nếu ai chưa nên thánh, thì người ấy hãy sám hối.35 Maranatha!36 Amen.
7. Hãy để các ngôn sứ trao lời tạ ơn tùy nghi.37
1. Nếu có ai đến với anh em và giảng dạy anh em tất cả những giáo huấn tương tự như những gì đã được nói như trên, thì hãy chào đón họ;
2. Nhưng nếu chính người giảng dạy ấy cố ý làm lệch lạc và giảng dạy giáo huấn khác để ngấm ngầm phá hoại, thì anh em đừng lắng nghe nó. Tuy nhiên, nếu như việc giảng dạy của người ấy xây dựng củng cố sự công chính và sự hiểu biết về Thiên Chúa, thì hãy chào đón họ như anh em chào đón Chúa.
3. Về vấn đề các Tông Đồ và Ngôn sứ, thì hãy cư xử với họ theo lề luật của Phúc Âm.
4. Bất cứ vị Tông Đồ nào đến với anh em, thì hãy chào đón họ như thể họ là chính Chúa;
5. Vị Tông Đồ đó sẽ không ở lại nơi anh em quá một ngày, và trừ phi điều ấy là cần thiết, thì trong trường hợp ấy ông sẽ ở thêm một ngày nữa; nhưng nếu ông ở đến ba ngày, thì ông ta là một ngôn sứ giả.
6. Khi ra đi, người Tông Đồ không mang theo gì cả, ngoài lương thực đi đường cho đến nơi nghỉ đêm kế tiếp; nếu ông đòi tiền, thì ông ta là một ngôn sứ giả.
7. Cũng thế, anh em chớ thử thách, cũng chớ đánh giá bất cứ ngôn sứ nào mà họ đang nói dưới sự linh hứng, vì mọi tội sẽ được tha, nhưng tội này thì sẽ không được tha.38
8. Tuy nhiên, không phải ai nói dưới tác động của linh hứng đều là ngôn sứ, nhưng chỉ người nào thể hiện cách thức của Thiên Chúa thôi. Qua cung cách sống của người ấy, vì vậy, sẽ nhận ra được thật giả giữa hàng ngôn sứ.
9. Thêm nữa, ngôn sứ nào dưới tác động linh hứng ra lệnh dọn tiệc thánh thiêng, thì chớ được dự vào tiệc đó; nếu người ấy làm, thì ông ta là ngôn sứ giả.
10. Ngôn sứ nào dạy điều chân lý mà lại không đem ra thực hành điều mình dạy, thì ông ta là ngôn sứ giả.
11. Ngược lại, ngôn sứ nào đã được chứng thực là người trình bày ý nghĩa biểu tượng mang tính hoàn vũ của Hội Thánh39 (với điều kiện ông ta không chỉ dạy anh em phải làm tất cả những điều ấy mà chính ông ta đang làm), thì anh em chớ kết án vị ngôn sứ đó, vì ông ta sẽ bị Chúa kết án. Vả chăng, các ngôn sứ ngày xưa cũng đã làm như thế.
12. Nhưng nếu kẻ nào nói với anh em dưới sự linh hứng; “hãy cho tôi tiền”, cũng như hãy cho tôi vật này vật khác, thì anh em chớ nghe lời ông ấy. Nhưng nếu như ông ta xin anh em ban phát khi nhân danh kẻ khác đang túng thiếu, thì chớ ai kết án ông ta.
1. Bất kỳ ai là người đến nhân danh Chúa, thì hãy đón nhận họ. Nhưng sau khi đã dò xét người ấy, và anh em nhận ra – vì anh em sẽ có cái nhìn sâu sắc – điều gì là chân thật và và điều gì là giả dối.40
2. Nếu người ấy là người đi từng chặng đường, thì hãy giúp đỡ theo khả năng của anh em. Nhưng người ấy sẽ không ở nhà anh em hơn hai ngày, mà nếu cần thiết, thì ba ngày.
3. Tuy nhiên, nếu như họ muốn ở lại luôn trong nhà anh em, và là người lành nghề, thì hãy để người ấy lao động để tự nuôi sống.
4. Nếu như họ không phải là người lành nghề, thì hãy quyết định theo sự phán đoán của riêng anh em về lối người ấy sống giữa anh em như là một người Kitô hữu, chớ để sống nhàn vi.
5. Nếu như họ không muốn cùng sống theo con đường ấy, thì đó là kẻ gian dối đối với Đức Kitô. Hãy cảnh giác những con người ấy.
1. Mặt khác, mọi ngôn sứ chính thức muốn ở lại nơi anh em, thì xứng đáng được anh em nuôi sống.
2. Cũng thế, người thầy dạy chính thức, thì như một người thợ, cũng xứng đáng được anh em nuôi sống.41
3. Vì vậy, hãy trích ra từ sản phẩm đầu mùa của việc ép nho và việc đạp lúa mì, và của gia sút và loài cừu, trao những sản phẩm đầu mùa ấy để tặng cho các ngôn sứ, vì họ là những thượng tế của ngươi.
4. Trong trường hợp không có ngôn sứ, thì hãy ban phát cho kẻ nghèo.
5. Nếu anh em làm bánh, thì hãy lấy những cái đầu tiên và ban phát cho họ theo như huấn lệnh dạy.
6. Tương tự, nếu anh em khui một thùng rượu hay một thùng dầu, thì hãy lấy những chai đầu tiên ban tặng cho các ngôn sứ.
7. Còn đối với tiền bạc, quần áo và bất cứ tài sản nào, hãy trích những thứ đầu tiên, tùy cách đánh giá của anh em, và ban phát chúng theo như huấn lệnh dạy.
1. Vào ngày của Chúa, hãy quy tụ với nhau, bẻ bánh và tạ ơn, trước đó anh em hãy xưng thú tội lỗi để lễ vật của anh em được trong sạch.
2. Nhưng chớ để bất kỳ ai có bất hòa với bạn mình tham dự với anh em cho đến khi họ đã giao hòa, để cho lễ vật anh em không bị vấy bẩn.
3. Vì đây là lễ vật mà Chúa đã nói như sau, “Ở mọi nơi và mọi thời, hãy dâng lên Ta một lễ vật tinh sạch, vì Ta là Vua vĩ đại, Đức Chúa phán, và danh Ta sẽ huy hoàng nơi mọi dân tộc”.42
1. Vì vậy, hãy chọn cho chính anh các vị giám mục và các phó tế xứng đáng của Chúa, những người ấy là những người hiền lành, vô tư lợi, chân thật và vững vàng, vì ở giữa anh em họ phải chu toàn thừa tác vụ của các ngôn sứ và thầy dạy.
2. Do đó, anh em chớ kinh miệt, vì họ là những người đáng kính trọng của anh em cùng với các ngôn sứ và thầy dạy.
3. Hơn nữa, hãy sửa chữa ai đó, chớ có giận dữ nhưng với thái độ ôn hòa, như anh em đã đọc trong Phúc Âm; và nếu ai đó phạm lỗi lầm với người lân cận, thì đừng ai nói chuyện với người ấy, cũng đừng để người ấy nhận được lời nào nơi anh em, cho đến khi người ấy sám hối.
4. Đối với kinh nguyện, của bác ái và mọi hành động của anh em, hãy làm tất cả các việc ấy như khi anh em đã đọc trong Phúc Âm của Chúa chúng ta.
1. “Hãy tỉnh thức” ngay trong cuộc sống: “chớ để tắt ngọn đèn, và chớ không sẵn sàng, nhưng hãy sẵn sàng, vì anh em không biết giờ nào Chúa chúng ta đến.43
2. Hãy quy tụ lại thường xuyên, tìm lợi ích cho tâm hồn anh em, vì tất cả thời gian của đức tin sẽ không đem lại gì cho anh em44 nếu anh không tìm kiếm sự hoàn trong thời cuối cùng này.
3. Thật vậy, trong thời cuối cùng này, các ngôn sứ giả và các kẻ phá hoại sẽ gia tăng, chiên biến thành sói, và tình yêu trở nên hận thù.
4. Với việc gia tăng vô pháp, họ sẽ thù ghét nhau, bách hại nhau và phản bội nhau.45 Bấy giờ tên quyến rũ thế giới mới xuất hiện như là con Thiên Chúa và “sẽ tạo nhiều dấu hiệu và nhiều điều kỳ diệu,”46 và cả trái đất sẽ rơi vào trong tay nó, và nó sẽ phạm những tội tày trời mà từ buổi tạo thiên lập địa đến giờ chưa xảy ra.
5. Bấy giờ cả nhân loại bị rơi vào ngọn lửa thử thách, và “nhiều kẻ sẽ sa ngã” và bị hại; nhưng “nhiều người bền chí” trong đức tin “sẽ được cứu thoát” khỏi số phận đáng nguyền rủa mình.47
6. Và “bấy giờ sẽ xuất hiện những dấu hiệu”48 của chân lý: trước tiên là dấu hiệu trời mở ra, tiếp đến là dấu chỉ tiếng kèn loan báo,49 và dấu chỉ thứ ba, sẽ là người chết sống lại,
7. Thế nhưng; không phải là tất cả, hơn nữa như có lời đã nói: “Chúa sẽ đến cùng với tất cả các thánh”.50
8. Bấy giờ thế giới “sẽ thấy Chúa ngự giá mây trời mà đến.”51