Từ khi bà ấy dẫn đứa con ra đi, tôi không liên lạc với bà nữa, trừ một vài chữ cần thiết viết cho con tôi để nó yên tâm về cha mẹ nó. Hơn 4 năm sau, vào buổi chiều 30. 12. 1994, cô K. N gởi đến nhà tôi hai người lạ mặt: một thanh niên (26 tuổi), tự giới thiệu là con nuôi của bà M, từng tỵ nạn bên Thái Lan mới hồi hương; và cha ruột của anh ấy (60 tuổi). Họ hồ hỡi từ Sóc Trăng lên phi trường Tân Sơn Nhất đón người mẹ từ Hoa Kỳ về V. N. Nhờ đó mà tôi biết bà M đang trên đường về. Tôi chấp nhận cho hai người lạ mặt nầy ở lại đêm trong nhà để đợi hôm sau lên phi trường đón bà M. Lúc đầu tôi không cho họ biết mình là người chồng đã ly thân của bà M. Người con trai 26 tuổi nầy làm con nuôi bà M từ trong trại tỵ nạn Thái Lan. Vì chưa biết mối liên hệ giữa tôi và bà M, anh ta không ngớt gọi bà ấy là “mẹ của con” ngọt xớt.
Sáng 31/12/1994, hai người đàn ông kia lên phi trường đón “mẹ”. Tối lại, H. Thanh gọi điện thoại bảo tôi đến thăm, nhưng sau đó, bà M mời tôi đến lấy cuộn băng cassette của thằng con. Gặp bà M, tôi chào hỏi vài câu rất ngắn, lấy cuộn băng casstte và rút lui. Hôm đó tôi có hẹn đi ăn tiệc cuối năm.
Ngày 01/01/1995, H. Thanh, K. N, Ðiệp đưa bà M đến nơi ở mới của tôi tại đường Vạn Kiếp. Suốt ngày tôi tránh tiếp xúc với bà M, nhưng quan sát ba người phụ nữ đã từng là mật báo viên và công an sắc phục đang cùng bà M lấn cấn quanh tôi. Tôi ngồi một mình ngoài phòng khách suy nghĩ sự đời, bốn người đàn bà nằm xuôi ngược trong phòng ngủ của tôi. Họ tỷ tê to nhỏ và cười rúc rích đến trưa họ ngủ khò. Chiều hôm đó, sau khi K. N, H. Thanh và Ðiệp ra về, bà M rề rà đến xin lỗi tôi và muốn bỏ qua chuyện cũ để bảo lãnh tôi qua Hoa Kỳ. Tôi nêu lý do đang chuẩn bị cưới cô Thảo để từ chối ý kiến ấy. Sau bữa cơm tối, tôi đưa bà M về lại cơ quan H. Thanh. Nhớ lại lời thằng Phương trong cuộn băng, nó không thắc mắc gì về cha mẹ nó cả, tôi tự hỏi tại sao mình không tha thứ bà ấy để được gần con? Tôi tâm sự với một vài anh em trong Chúa, họ khuyên nên tha thứ cho bà ấy. Tối 02 tháng 1 năm 1995, M đến nhờ tôi chở đi thăm vợ chồng Thuận và P. X. N. Vợ chồng P. X. N ngạc nhiên và vui mừng khi thấy tôi chở bà M đến. Té ra P. X. N cũng quen cô Thảo. Ðưa bà M về lại cơ quan H. Thanh xong, tôi ghé thăm cô Thảo. Thảo muốn ngưng tổ chức đám cưới và khuyên tôi trở lại với bà M. Tôi trở thành một người đàn ông có hai bà:
Bồ buông, vợ níu lưng chừng
Tôi băn khoăn giữa ngập ngừng đắn đo...!
Thảo muốn được gặp mặt chị M để chào một tiếng. M cũng thế. Tôi xem hai người giáp mặt nhau. Anh em trong Chúa nghe tin nầy ai cũng Vui. Tôi nói với M:
- Anh không thể ra khỏi Việt Nam vì từ lâu anh thấy Chúa muốn anh hầu việc Người ở trong nước.
- Thì em về sống tại Việt Nam với anh cũng được mà! - M nói.
. . . Tôi im lặng.
Những ngày đó tôi chạy xe ngoài đường với hai hàng nước mắt. Buổi nhóm Chúa Nhật đầu tiên của năm 1995 tại nhà tôi trở thành buổi nhóm cầu nguyện cho bà M và tôi mang nhẫn trở lại. Tôi như người bị cụt một chân đang lay hoay làm cái chân giả, bất ngờ gặp lại cái chân cũ của mình và hy vọng có thể nối vào như trước. Dầu vậy, tôi yêu cầu bà M cứ ở tại cơ quan H. Thanh. Từ cơ quan H. Thanh, bà M gởi hai cha con kết nghĩa về cho tôi chứa tạm. Vào một sáng sớm, tôi đang ngủ nướng trên giường, một người mặc áo trắng toát đến bên tôi một cách tự nhiên như người đang sống chung trong phòng. Người ấy nói:
- Tôi tặng anh Nhật hai chiếc nhẫn nầy để cưới lại chị M.
Tôi đưa tay ra nhận hai chiếc nhẫn vàng, nhưng người ấy đột ngột rút tay lui và nói tiếp:
- Khoan! Phải báp-tem hai chiếc nhẫn trước đã.
Ðoạn, người áo trắng chỉ ngón tay trỏ thật mạnh vào túi áo tôi, nói tiếp:
- Cây bút nầy cũng phải được báp-tem nữa!
Giấc mơ “Người áo trắng” đang xẩy ra Bỗng nghe tiếng chuông ai kêu cửa dưới nhà, tôi tỉnh giấc và biết mình đang chiêm bao! Một phút sau, bà M bước vào phòng ôm lấy tôi. Tôi kể lại giấc chiêm bao còn nóng hổi. Cả bà M và tôi đều tin rằng Chúa cho phép chúng tôi cưới nhau lại. Sáng hôm đó bà M đi truyền giáo ở vùng Bà Rịa với mục sư Võ Văn Lạc. Hình như một anh em nào đó chở bà M đến và đang đứng chờ ngoài ngõ. Sau mấy ngày truyền giáo, bà M về ở lại với tôi một đêm. Chiều hôm sau tôi đưa bà M lên phi trường đi Nam Hàn. Từ Nam Hàn bà viết về một lá thư đầy tình yêu và bài giảng. Từ Hoa Kỳ, những lá thư giảng dạy của bà M gởi về Việt Nam làm cho tôi khó chịu. Tôi nghe thêm những bài làm chứng của bà M về sự kiện bà “tha thứ” cho chồng. Hóa ra tôi không phải là người tha thứ cho bà ấy, nhưng chính bà ấy đem về một sự “bao dung tha thứ” cho tôi. Dù chưa nghĩ đến một vụ gián điệp gì cả, nhưng tôi cảm thấy khó trở lại làm chồng người đàn bà này. Tôi viết một lá thư dài yêu cầu bà làm sáng tỏ từng điểm trước khi trở lại sống chung. Ai ăn năn? Ai tha thứ ai?
Ðầu tháng 5, 1995 tôi có giấy mời qua thăm tây Ðức. Mới mua vé may bay được vài hôm, tôi nghe điện thoại của bà M nói rằng “em sẽ về VN ngày 25. 5. 1995”. Tôi cho bà ấy biết tôi sắp qua thăm nước Ðức ngày 12 tháng 5. 1995. Bà ấy khuyên tôi hoãn vé máy bay để đợi bà về. Tôi từ chối và khuyên bà hãy về đọc lá thư dài của tôi rồi tính sau. Tối 30. 5. 1995, tôi gọi điện từ Berlin về nhà và gặp M. Bà M hứa sẽ trả lời lá thư dài của tôi sau khi qua Mỹ. Bà M rời VN ngày 4 tháng 6. 1995. Ðứa con trai của tôi viết một lá thư rất dễ thương đề ngày 12 tháng 6. 1995 gởi kèm theo tờ bảo lãnh của bà M qua địa chỉ Berlin. Giấy bảo lãnh của bà M ký ngày 13 tháng 2. 1995. Tôi được học bổng của UNESCO để học 01 năm môn tâm lý tại Scotland, nhưng phải về VN để làm thủ tục du học. Rời Berlin về V. N ngày 9 tháng 9. 1995, tôi nộp đơn đi du học, nhưng bị VN không cho đi.
Tôi vẫn không nộp đơn đoàn tụ tgia đình, nhưng bất ngờ gặp một nữ Việt Kiều từ Mỹ về, bà tự giới thiệu là chị nuôi của M và khuyên tôi nên đi Mỹ: “nếu Nhật không qua Mỹ, M sẽ mòn mỏi đến chết, vì M thương nhớ Nhật mà M mang bịnh nặng Hoa Kỳ”. Ấy là bà Diễm Chi, luật sư, mở văn phòng hợp tác đầu tư tại đường Ngô Quyền Chợ Lớn. Thời gian nầy tôi nhận được một lá thư của M, cho biết rằng “bài làm chứng của anh ở Ðức... đã được đăng trên 2 số báo... Bây giờ có thêm nhiều người biết M là cựu CS... Có thể bị ma quỷ xúi kẻ cực đoan đến đốt nhà”. (Tôi chưa hề biết bài báo đó!)
Nghĩ lui nghĩ tới, rồi tôi cũng nộp đơn đoàn tụ gia đình vào tháng 11 năm 1995. Ngay sau đó công an PA. 16 đến với tôi hằng tuần để nói về tình hình bên Mỹ. Dần dần họ thuyết phục tôi tham gia một kế hoạch hải ngoại làm lợi cho đất nước. Người liên lạc với tôi nhiều nhất là Hữu, tên công an đặc phái Tin Lành. Tôi vừa đấu trí vừa hòa hoãn với Hữu và ông Tám phòng PA. 16 cho đến giữa tháng 10/1996. Buổi gặp mặt cuối cùng của Hữu và ông Tám cũng giống như năm 1985 tôi tiếp Tám Ðồng. Hữu nói:
- Ngày anh Nhật lên đường sắp tới nơi rồi. Tiện thể hôm nay có mặt anh Tám, tôi đề nghị anh Nhật viết vài chữ để ký nhận và cam kết làm một chiến sỹ quốc tế cho tổ quốc.
- Tôi sẽ làm việc với lòng yêu nước của tôi, nhưng xin các anh cho tôi khỏi ký tên, khỏi cam kết. Ðược không?
- Ðây là công việc Ðảng giao, mình nên làm đúng thủ tục cần thiết anh Nhật ạ. Qua đó anh sẽ làm việc với người nhà của anh chứ không ai xa lạ đâu.
- Tại sao các anh có thể tin tưởng được bà M? Tôi cho các anh biết rằng tôi không tin nổi bà ấy đâu!
- Bước đầu mới qua, anh làm việc với chị M, nhưng Ðảng sẽ giao cho anh một cơ sở quan trọng, anh sẽ gặp nhiều người khác nữa. Qua đó, anh sẽ biết rõ hơn.
- Không được. Tôi không muốn bà M biết công việc của tôi. Tôi không tin bà M.
Hữu quay qua anh Tám:
- Sao đây anh Tám?
- Ðể đó tính sau. Ta về cái đã.
Tám trả lời rất nhỏ, nét mặt nhợt nhạt tức bực. Hai người quay đi không thèm chào tôi. Tôi cảm biết tai họa sẽ đến với mình. Chỉ mấy hôm sau đó, bà M gọi điện về cho tôi biết rằng nếu cần, bà có thể huỷ hồ sơ bảo lãnh của tôi dù tôi đã được phỏng vấn, được làm xong thủ tục khám sức khỏe. Bà M nói:
- Ðến giờ nầy M vẫn có quyền say no để anh Nhật bị ở lại. Vậy nếu anh Nhật muốn M say yes để được qua Hoa Kỳ, thì trước hết phải viết cho M một tờ cam kết rằng khi qua Mỹ, anh Nhật không được làm phiền đời sống riêng tư của M. Bao lâu M có tờ giấy đó trong tay, M sẽ say yes!
Tôi đã viết thư ngay hôm đó, nhưng thay vì cam kết không là phiền M tại Hoa Kỳ, tôi đã than phiền rằng M đã làm phiền tôi quá nhiều từ bấy lâu nay. Và chưa bao giờ tôi muốn làm phiền M cả.
Con đường đoàn tụ gia đình của tôi im hơi lặng tiếng từ tháng 10. 1996. Tháng 3/1997 văn phòng ODP gọi lại để tôi tái xác nhận địa chỉ bà M. Ðến cuối tháng 9/1997 tôi nhận được giấy gọi tái khám sức khỏe của ODP. Tờ giấy ghi: nếu không đến, hồ sơ sẽ khép lại vĩnh viễn. Nhưng tôi phải đến để trình bày một sự khó khăn chứ không dám đi, vì nghĩ rằng mình đã không chấp nhận làm việc cho họ, họ sẽ giết mình trước khi tới phi trường Tân Sơn Nhất. Tôi đã đến văn phòng ODP, được gặp một người đàn bà Mỹ, trẻ, đẹp, nhưng không làm sao nói hết sự tình. Nhưng sau đó tôi đã trình bày với ba người Mỹ khác để phòng về sau họ có thể làm chứng cho trường hợp của tôi.
Vì đối diện với nhiều nguy hiểm, tôi nghĩ mình nên lập lại gia đình để PA. 16 yên tâm rằng tôi không đi Mỹ nữa. Nhưng công an khu vực đã ngăn cản chuyện cưới vợ của tôi với lý do “anh có vợ bên Mỹ”. Cuối năm 1977, tôi yêu cầu bà ấy gởi cho tôi tờ ly dị để tôi lập lại gia đình. Bà ấy nhờ K. N cầm tay đem về, nhưng đó là tờ cancel ký ngày 25/7/1996 chứ không phải giấy li dị. Giấy cancel ký ngày 25 tháng 7/1996, nhưng ngày 4 tháng 10/1996 bà ấy vẫn gọi điện về hỏi thăm tôi sắp đi chưa, và nhờ tôi phụ giúp chi phí đám cưới con gái riêng của bà ở Phước Hải!
Sự hăm dọa và theo dõi tôi càng thêm gay gắt. Tôi muốn cưới vợ lại cũng không được, nhưng nếu ăn ở với nhau không có hôn nhân chính thức thì khó hầu việc Chúa. Tôi nghĩ đến việc kiếm một tờ giấy mời để qua Ðức rồi tính sau. Khi có giấy mời, tôi nộp đơn đi Ðức du lịch. Nhưng thông hành du lịch của tôi bị tịch thu suốt 6 tháng. Nhiều lần tôi đã ngắm xem tòa lãnh sự Mỹ đặt đối diện với tòa lãnh sự Ðức ở Sài Gòn, nhưng thấy nhiều trở ngại lắm, tôi không dám chạy vào. Tôi lại nhờ một người Ðức khác giúp đỡ để qua Campuchia hoặc Thái Lan rồi chạy thẳng vào tòa đại sứ Mỹ. May thay, một người bạn cũ, đã từng chụp ảnh chung với tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, đến thăm tôi và đưa ra một giải pháp giúp tôi rời khỏi Việt Nam bằng máy bay với giấy mời của người Ðức có sẵn. Tôi hồi hộp rời Tân Sơn Nhất chiều 5 tháng 10. 1998. Khi máy bay cất cánh tôi mới biết chắc mình được đi an toàn. Ðến Ðức, tôi nhờ Caritas Berlin giúp thủ tục qua Mỹ. Nhưng mọi sự đã không thành, tôi đành xin tỵ nạn tại Ðức cho đến hôm nay.
Hơn ba năm nằm trong tại tỵ nạn, tôi nghiệm thấy rằng Chúa biết tôi là đứa con khờ dại nên Người dắt đi một đoạn đường dài hơn để mở mắt tôi. Vâng, bây giờ tôi hiểu thêm nhiều điều gay cấn của những người tham gia công tác mật ở hải ngoại.
Suốt 12 năm xa cách, tôi không liên lạc với bà ấy. Mấy năm tôi ở Ðức, bà chỉ viết một lá thư tố cáo tôi nhiều tội, và tự nhận mình là bạn của FBI. Buổi sáng 20/4/2001, bà ấy gọi điện cho tôi từ bên Hoa Kỳ qua Berlin, trong 75 phút điện đàm, bà ta đòi bảo lãnh tôi qua Mỹ và nói rằng “tôi đã nhiều lần xin lỗi ông”. Nhưng thật ra trước đó bà ấy đã về Việt Nam nghiên cứu những bằng chứng “tôi đã ăn ở bất chính với những ai”. Tháng Ba năm 2001 bà đến Sacramento để thuyết phục ông S đừng xuất bản sách Từ Áo Cà Sa Ðến Thập Tự Giá. Bà tố cáo với ông S rằng “Huệ Nhật là một đứa con giết mẹ, một người cha bị đứa con trai khước từ, một người đàn ông hiếp dâm trẻ mồ côi tật nguyền... “ Tôi đã phải nhờ các tôi tớ và con cái Chúa từ Hoa Kỳ và cả ở Việt Nam tiếp xúc lại với những ai đã bị bà ấy vu khống để thâu băng các câu chuyện vấn đáp để giúp tôi làm sáng tỏ sự thật. Chúa dạy chúng ta tha thứ, yêu thương. Nhưng tha thứ và yêu thương phải cho thành thật. Tôi cảm tạ Chúa, và hiểu rằng tha thứ và yêu thương không có nghĩa là cứ để cho tội ác còn cơ hội hoành hành trong khi Chúa cho mình khả năng ngăn chận. Bất cứ khi nào tội nhân ăn năn với Chúa đều được sự tha thứ của Chúa cả. Ðối với tôi, bà ấy đáng thương hơn là đáng trách. Bà đã tự làm cho bà tối tăm và khốn khổ. Những điều dữ mà bà vu cho tôi, những tai họa mà bà buộc cho tôi suốt 20 năm qua vẫn không đánh gục tôi được. Tôi là một người đi tìm ý nghĩa của cuộc đời. Ðược giáp mặt với cuộc đời để tìm ra ý nghĩa đích thật của nó, hơn thế nữa, tôi được Chúa cho thấy bàn tay thương yêu mầu nhiệm của Người. Cũng như Gióp, tôi đã nhìn biết Chúa bởi chính con mắt của lòng tôi.
Cám ơn Chúa. Mọi sự đã được rõ ràng. Cũng như Gióp, nhờ những bước gian truân mà tôi đã nhìn biết Chúa bởi chính con mắt của lòng tôi.