Nguoi Tin Huu Logo
  • Trang Nhà
  • Trang Chính
    • CHIA SẺ
      • ĐỖ TRÂN DUY
      • Lm. HỒNG GIÁO
      • NGUYỄN HUỆ NHẬT
        • TỪ ÁO CÀSA ĐẾN THẬP TỰ GIÁ
        • AI CHẾT CHO AI? AI SỐNG CHO AI?
        • ĐỐI THOẠI VỚI MỘT PHẬN TỬ
      • NHIỀU TÁC GIẢ
    • DÒNG MÁU ANH HÙNG
    • ĐƯỜNG VÀO ĐẠO
    • HIỂU ĐỂ SỐNG ĐẠO
    • HÔN NHÂN CÔNG GIÁO
    • HỘ GIÁO
    • LỊCH SỬ GIÁO HỘI
    • MÁI ẤM GIA ĐÌNH
    • PHỤNG VỤ
      • Bài Giảng
      • Các Nghi Thức
    • SÁCH & TRUYỆN
  • Trang Hàng Ngày
    • GƯƠNG THÁNH NHÂN
    • SUY NIỆM HÀNG NGÀY
  • Trang Ngoài
    • VIETCATHOLIC
    • CẦU NGUYỆN BẰNG THÁNH VỊNH ĐÁP CA
    • HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VN
    • DÒNG CHÚA CỨU THẾ VN
    • DÒNG TÊN VN
    • LIÊN HIỆP BỀ TRÊN THƯỢNG CẤP VN
    • TRANG SỨ GIẢ TÌNH YÊU

Nguyễn Huệ Nhật - AI CHẾT CHO AI? AI SỐNG CHO AI?

NHỮNG THỬ THÁCH PHẢI ÐẾN (tiếp theo)

Quỷ Ma Ðen Dạ Tối Lòng, Mưu Thâm Khéo Buộc Chiếc Tròng Oan Gia!

Khi đưa ra giải pháp ly dị vợ, tôi bằng lòng giao xưởng cơ khí cho bà bán để trả ít nhất là 50% số nợ của bà. Những cái máy tiện, máy khoan, máy bào, máy hàn, máy cưa, máy cắt... Nếu đem bán đổ bán tháo cũng được một chục cây vàng. Tôi nhờ người bạn cũ bên Anh giúp đỡ cho cá nhân tôi một điều quan trọng. Người ấy có thể làm một tờ hôn thú để bảo lãnh tôi qua ra khỏi nước Việt Nam. Bề ngoài gia đình tôi không ai cãi lộn, nhưng đến giai đoạn nầy chúng tôi không có gì để gọi là vợ chồng nữa. Thỉnh thoảng tôi vẫn chở hai mẹ con ra phố. Khi nào có mặt con thì chúng tôi im lặng không đề cập đến chuyện khủng hoảng gia đình. Nhu cầu của “nhà tôi” là muốn không bị mang tiếng để bà khỏi mất uy tín trong xã hội, xóm giềng cũng như trong Hội Thánh sau khi ly dị. Nhu cầu của tôi là muốn thoát khỏi vai trò làm chồng hờ và ra đi để cho đứa con không biết gì về những đau buồn của cha mẹ nó. Còn chuyện gì nữa sẽ tính sau. Tôi viết thư cho cô Anson, một người bạn thân của tôi ở bên Anh. Cô là người bạn cũ trước 1975. Tôi đã yêu cô ấy, nhưng cô ấy không chấp nhận tình cảm của tôi vì hồi đó tôi không tin Chúa. Sau nầy trở về trong Chúa, tôi hiểu và quý trọng thái độ tin kính của cô Anson. Từ trước 1975 cho đến sau nầy, chúng tôi hoàn toàn không có sự quan hệ bất chính nào cả. Tôi không dám tự cho mình là người tốt, nhưng tôi phải công nhận rằng Anson là một người có đời sống tin kính mạnh mẽ và không che giấu con người thật của cô. Tôi kinh nghiệm rằng con người nào cũng có những cái xấu đáng trách, nhưng ai kính sợ Thiên Chúa thì không bị lâm lụy vào những lỗi lầm giả trá khó tha thứ. Ngay trong những ngày êm ấm, tôi đã cho nhà tôi biết những tình cảm quá khứ của tôi và Anson.

Khi nghe hoàn cảnh tôi như thế, cô Anson qua thăm Việt Nam và cũng để tìm hiểu thực hư ra sao mới có thể trả lời là giúp hay không giúp. Bao nhiêu năm tôi cho cô ấy biết rằng tôi đã tin Chúa và có một gia đình ổn định, nhưng bây giờ thì đổ vỡ tan tành nghĩa là sao? Trong khi đợi cô ấy đến Saigòn, chúng tôi tiến hành làm đơn ly dị. Nhà tôi có thân có thế nên hứa rằng “tốn vài chỉ cho tòa án là họ làm quyết định ly dị ngay, khỏi ồn ào thưa kiện, khỏi đợi chờ”. Chúng tôi tiến hành viết đơn ly dị và cùng ký tên vào. Ngay công việc nầy cũng dạy cho tôi thêm những bài học để đời!

Hai “vợ chồng” chúng tôi lên phi trường đón cô Anson. “Vợ tôi” mời cô Anson về nhà đãi đằng và đưa đi thăm các cô nhi viện, các nhà tế bần để vận động tài chánh, vì Anson làm công tác từ thiện nhân đạo lâu năm. Anson xem chúng tôi như những người thích đùa dai: “Nghe nói vợ chồng ly dị, gia đình ly tan gì mà các bạn cùng nhau đón tiếp tôi tỉnh bơ như thế?”. Tôi giải thích cho cô ta về tình cảnh gia đình của người cộng sản Việt Nam. Tôi nhớ Trần Mạnh Hảo viết quyển Ly Thân, ông đã diễn tả dùm tôi nhiều điều mà tôi không thể nói ra được. Vợ chồng trong chế độ cộng sản sắp giết nhau bằng âm mưu chính trị, nhưng miệng họ vẫn nở nụ cười ngọt như đang hạnh phúc nồng nàn nhờ ánh sáng Mác lê! Tôi hy vọng rằng một ngày nào đó Anson sẽ làm chứng lại trong hội thánh Chúa và tôi sẽ xin lỗi cô một lần, vì tôi mà ngày nay trong giới Tin Lành Việt Nam còn có người người cho rằng tôi đã “ăn ở” bất chính với cả người Anh và người Ðức.

Tuần lễ bà M hướng dẫn Anson đi thăm các trung tâm từ thiện đã xong, đến lượt tôi đưa Anson đi Vũng Tầu và Ðalạt. Lúc đó Anson qua thăm Việt Nam theo tour của công ty du lịch Thành Ðoàn tổ chức, vì thế Anson có xe và “được” nhân viên hướng dẫn đi Ðalạt. Tôi xin đi theo với tư cách là bạn của khách nước ngoài có đăng ký với Công Ty Du Lịch. Anson ở khách sạn La Palace. Ban ngày tôi dẫn cô ta đi thăm Ðà lạt, ban tối tôi ở lại nhà bà Dương Hội, một gia đình yêu mến Chúa có nề nếp đạo đức và đời sống tin kính gương mẫu đối với tôi. Tôi đưa Anson đến thăm bà Dương Hội và nói cho bà biết sự thật về những gì đã xẩy ra trong gia đình tôi. Dĩ nhiên bà cụ rất buồn. Ðiều quan trọng nhất đối với tôi là mình không phạm tội với Chúa khi đưa cô Anson đi Ðalạt. Anson là một con cái Chúa, cô ta không chấp nhận việc tình cảm luông tuồng. Từ trước 1975 tại Sài gòn, cô ta cũng đối xử với tôi như thế và đồng thời cô đòi hỏi tôi phải cư xử đúng như thế. Anson là một phụ nữ Anh có đời sống tin kính rõ ràng dứt khóat và không che giấu những yếu đuối của mình. Ðiều nầy tôi đã nói cho vợ tôi từ lâu. Một tình cảm chân thành và trong sáng mà Anson đem đến cho tôi lúc đó thật là đáng quý. Thế nhưng khi về lại Saigòn, tôi nghe người ta nói “Ông HN đã phạm tội ngoại tình với cô Anson nên bị vợ ly dị”. Ðứa ở trong nhà cũng nói thế. Sau đó tôi mục kích chính bà ấy nói với con trai tôi là “Bố Ngoại Tình với cô Anson”. Ðối với tôi, đây là một sự lật lọng, vu khống đầy dã tâm khó tha thứ nhất. Trút tội lỗi của mình cho chồng để giành lấy tiếng thơm và uy tín giữa xã hội thì có thể biện minh được bằng tính ích kỷ trong con người, nhưng vu khống tội ác cho chồng mình bằng cách nói nhỏ, tâm tể với đứa con thơ thì rõ ràng là đưa đứa con đó vào một ngõ cụt trọn đời mà không đem lại ích lợi gì cho bản thân mình cả. Người mẹ nào đã dám vu oan những tội ác cho chồng để gieo vào tâm hồn con thơ những ấn tượng đen tối sâu sắc, thì người mẹ đó phải là một con quỷ dữ. Ðứa con ấy sẽ lớn lên thành một con người tật nguyền trong tâm hồn vì hành động tội ác của mẹ nó. Không có một đứa con nào có thể sống hạnh phúc nhờ khinh cha tởm mẹ. Khó có một đứa con nào giữ được đạo đức và sự tin kính nhờ tội ác của cha mẹ đem gieo vào tâm hồn nó khi còn ấu thơ. Tôi đã giải thích cho bà ấy về điều nầy rất kỹ để rồi chính tôi đã phải chứng kiến và chịu đựng hành động gieo tội lỗi của bà ta vào lòng đứa con thơ dại. Ðây là tội ác của Satan chứ không phải chỉ là con người thuần túy.

Mất Con Nát Ruột Tan Lòng

Làm một người đàn ông có bà vợ đặc biệt như thế nhưng tôi luôn tạ ơn Chúa, vì nhờ ơn Chúa tôi mới nhịn nhục được để bảo toàn mạng sống mình mà không bị rơi vào những tội lỗi khác đáng trách hơn. Nhưng tánh cả tin của tôi vẫn bị bà khai thác không thương xót. Rõ ràng là tôi đã bị gài bẫy và bị lật ngược thế cờ. Một hành động phản bội đầy tính toán, lấy cây gậy của người cứu mình để giết lại họ hầu cho khỏi mang ơn mà được “tiếng tốt”. Thế nhưng sự phản trắc đen tối nầy cũng không làm tôi nao núng. Tôi càng lạnh lùng và quyết chí hơn với giải pháp ly dị dù chưa biết mình sẽ sống nơi đâu. Cô Anson trở về Anh. Tôi vẫn liên lạc thư từ với Anson. Những lá thư của tôi bị “bà nhà” ăn cắp đem cho cô Thuận, vợ P. X. N dịch. Tôi quyết định bỏ chương trình đi Anh, ngay cả khi cô Anson có thể giúp được. Tôi quyết định sống ở Việt Nam để nuôi con khôn lớn đủ tuổi trưởng thành và cho nó biết sự thật. Vì nghĩ rằng cãi vã với bà ấy chỉ làm hại cho con mình và có thể khó bảo tồn mạng sống của mình. Kể từ ngày yêu người đàn bày nầy, tôi đã chấp nhận đánh đu làm chồng và có một đứa con “mang bầu 13 tháng mới đẻ”. Tôi đã bỏ qua được vụ mang bầu 13 tháng và yêu thương chăm sóc con tôi như không có gì xẩy ra. Tôi luôn nói với mình rằng đáng ra mình đã chết, nay mình đang sống mà có Chúa nữa thì thà giữ sự mềm mại, bền chí, nhịn nhục như Lời Chúa dạy, để xem sự đời đưa dẫn tới đâu. Tới đâu cũng không sợ “vì Chúa ở cùng tôi”. Chúa dạy rằng dù tai họa, dù đói rách, dù oan khiên đều có ích cho mình khi mình ở trong Người. Niềm tin nầy giúp tôi chịu đựng mọi sự và còn đủ sức để thách thức với nan đề nữa. Bây giờ không thể giao xưởng máy cho bà ấy bán để trả bớt nợ như tôi đã hứa với bà. Tôi dứt khoát không quan tâm đến nợ nần của bà nữa. Ly dị là việc phải thực hiện thẳng thừng và tôi chịu trách nhiệm nuôi con. Nếu bà ta muốn ở trong nhà và đem bạn trai về vẫn cứ được. Khi lòng mình đã lạnh lùng, dứt khoát và quyết chí một con đường, tôi cảm thấy dễ chịu hơn, nhưng bà ấy không đủ can đảm sống như thế đâu. Bà ta dọn ra ở tại nhà Rum Bảo Việt, tức là Chú Sáu Chiến ở đường Võ Thị Sáu. Rum Bảo Việt là tay trùm mật vụ của trung ương cục R, cũng là thầy của Nguyễn Vĩnh Nghiệp, Chủ Tịch UBND TP HCM lúc đó. Lâu lâu bà về lại nhà Lương Như Học ngủ đêm. Ði đâu hai mẹ con cũng có nhau. Tôi cứ để vậy, và chờ làm xong giấy tờ li dị rồi hẳn hay. Khi nào bà ta về ngủ đêm tại Lương Như Học, tôi cố làm việc trên máy bào, máy tiện cho đến sáng hôm sau để tránh gặp mặt bà. Nhất là tránh tình trạng đêm hôm bà tìm đến tôi như hai con vật không có ngôn ngữ. Tôi ghét nhất là “người vợ” không nhìn nhận lỗi, cứ tiếp tục lươn lẹo; nhưng đêm đêm thì ban tặng cho chồng một sự làm hòa im lặng trần truồng. Tôi cảm thấy khó từ chối và khó làm cho mình vô cảm như lý trí mình mong muốn. Sau những lần như thế, tôi lại khiển trách con người đàn ông yếu đuối trong tôi.

Vào một đêm kia bà về rất trễ. Tôi nghe sặc mùi rượu. Bà ói mửa đầy nhà. Tôi ngưng máy móc để phụ một tay với đứa ở dọn dẹp cho bà, tránh không cho con tôi biết. Vài hôm sau tôi nghe bà nói “Em có đường dây đi Camphuchia trốn qua Thái Lan”. Tôi yêu cầu bà ấy cho tôi tiếp xúc với người tổ chức. Sau khi gặp họ, tôi nhận định rằng đi như thế là vô cùng nguy hiểm. Tôi nói “bà có quyền đi một mình, tuyệt đối không được mang bé Phương theo”. Bà ấy cũng hứa với tôi như thế. Nhưng chỉ hai ngày sau bà đã lén lút đưa con đi. Tôi không ngờ mình còn ngây thơ đến độ đó! Không hiểu tại sao tôi vẫn có thể tin lời hứa của bà được kia chứ! Tôi không tin rằng bà có thể ăn cắp đứa con để trốn đi một cách nguy hiểm như thế được. Tôi nghĩ rằng có thể hai mẹ con bị tai nạn gì đây. Ðêm hôm đó tôi đi tìm khắp các nhà quen. Tôi chạy đến các phòng cấp cứu của hầu hết những bịnh viện trong thành phố cho đến sáng mới về nhà.

Một khoảng trống kinh khủng xẩy đến trong đời tôi: thiếu đứa con. Tôi chới với thèm thuồng từng tiếng nói, tiếng cười của nó. Tôi quay quắt khi thấy áo quần, đồ chơi, giầy dép và sách vở của nó. Tôi lên gác nằm im trong bóng tối và tưởng tượng có thể hai mẹ con bị giết dọc đường. Có thể bà ấy bị hiếp mà con tôi phải chứng kiến trước khi mẹ nó và nó bị giết. Có thể con tôi chứng kiến mẹ nó như thế, rồi phải sống lây lất đâu đó trong rừng, ăn xin dọc đường, gọi bố mỗi ngày xơ xác. Những tưởng tượng như thế là vô cùng kinh khủng. Không có một nỗi đau nào lớn hơn nữa. Có khi bất giác tôi vùng dậy để chạy đi cứu con, nhưng mặc áo quần vào thì biết mình đang lẩm cẩm. Có khi tôi nghe đâu người ta đưa con tôi về Long An. Hình như đó là những giấc chiêm bao giống như thật. Có khi tôi đã ôm con vào lòng, nghe nó khóc nức nở, tiếng gọi bố ơi của nó nghe rất rõ. Tôi ôm chặt con tôi trong tay, nhưng tỉnh ra thì biết mình đang ôm chiếc gối một mình. Tôi tiếc quay quắt và tự trách mình đã thức dậy sớm quá làm mất hẳn giấc mơ có đứa con trong tay. Tôi nhận thức được rằng mình đang bị khủng hoảng trầm trọng. Tôi đi thăm anh Lâm Lý Trí để trực tiếp nghe anh kể rõ những người Thái Lan cưỡng hiếp và giết người vượt biên như thế nào. Chúa đã cứu hai cha con anh Lâm Lý Trí trong một tai nạn hải tặc vô cùng khủng khiếp!

Phước thay lúc đó tôi có một số các cháu đến ở chung trong nhà. Chúng gọi tôi bằng chú ruột, bác ruột, cậu ruột. Ðứa thì học nghề cơ khí tiện nguội, đứa thì học may, đứa thì chuẩn bị thi vào đại học. Tất cả chừng 06 đứa cháu đến ở với tôi. Xưởng máy là nguồn kinh tế cho cả nhà. Và tôi còn phải thanh toán một số nợ khẩn cấp cho Fimexco, nếu không thì bị công an Q. I đến niêm phong nhà và xưởng máy, vì Fimeco là công ty Xuất Nhập Khẩu Q. I. Là một người chồng của bà vợ quỵt nợ bỏ trốn, tôi khốn đốn vô cùng. Công an Q. I gọi mời, mời gọi, hăm he... Các cháu đề nghị mỗi buổi sáng sớm, cả nhà thức dậy học Kinh Thánh và cầu nguyện. Tôi tuần tự học Thi Thiên mỗi buổi sáng với các cháu, nhưng tôi không thể nào chia xẻ nổi nên mời chú Hạnh chồng cô Mến đến chia xẻ mỗi sáng sớm, và anh chị Trương Văn Hoàng đến chia xẻ mỗi buổi nhóm ngày Chúa Nhật. Biến cố mếch lòng với Mục Sư H. T. B và chuyện vợ tôi bỏ đi khiến tôi không đi nhóm ở Hội Thánh P. T. H nữa. Tôi không đi nhóm thì phần đông các cháu cũng không đi. Tôi khuyên các cháu phải giữ sự nhóm lại, nhưng khi đến Hội Thánh P. T. H chúng nghe tiếng bấc tiềng chì rồi bỏ nhóm. Buộc lòng tôi phải tổ chức nhóm lại trong nhà để duy trì sự thờ phượng Chúa. Bí quá, phải làm gượng vậy thôi, nhưng Chúa vẫn thương xót. Ôi Chúa thật là lạ, dù mình sa sút tới mức nào Người vẫn tra tay cứu vớt. Chúa và Phật khác nhau ở điểm nầy xa lắm. Bởi thế nên bây giờ tôi mới hiểu tại sao khi người ta túng quẩn thì họ thốt lên những tiếng kêu “Trời ơi, Chúa ơi”. Chẳng ai kêu “Phật ơi” bao giờ.

Ban ngày xưởng máy vẫn chạy, nhưng tôi sa sút bỏ bê dần dần. Tôi nhớ lại thời gian 1978-1979; vì buồn bà ấy, tôi đã bỏ về quê săn sóc bố vợ với ước mong dạy cho bà ta hiểu thế nào là lòng hiếu thảo và ý nghĩa vợ chồng. Thời gian nầy chúng tôi ở xa nhau hàng trăm cây số suốt cả năm, ít khi gặp nhau lắm. Một buổi sáng nọ tôi đi xe khuya lên Sài Gòn thật sớm. Vừa mới tới nhà lúc tờ mờ sáng, tôi thấy một người đàn ông đi ra từ ngõ nhà vợ tôi (anh nầy tên là Hoàng, em ruột của ông họa sỹ Minh, một huynh trưởng gia đình phật tử gần Ngã Bảy. Hoàng là chồng của chị Hương, chị của cô Hoa, bạn vợ tôi. Họ quen nhau trước khi gặp tôi). Khi tôi vào tới nhà, vợ tôi hớt hải: “anh biết không, hồi hôm con Hoa đem hai thằng đàn ông đến đây, một thằng ngủ với nó, một thằng vào hiếp em, em không chịu, em mới đạp nó ra khỏi giường và đuổi nó ra khỏi nhà”. Thật ra khi tôi thấy Hoàng và bộ đi của nó bước ra khỏi nhà vợ tôi lúc sáng sớm là tôi có thể hình dung những gì đã xẫy ra trong đêm đó rồi. Bởi thế, tôi cứ tỉnh bơ như không có gì quan trọng cả. Là một người phụ nữ vừa mới bị hiếp dâm, nhưng sao bà ta ăn nói hăng hái hùng hổ và huênh hoang hợm hĩnh đến thế? Chính tôi đã biết nhiều điều mà bà không ngờ tôi biết. Ấy là nhờ Cộng sản đã vô tình rèn luyện cho tôi thành một con người biết kiên nhẫn, trì chí và tỉnh bơ khi đối diện với nghịch cảnh oan gia. Tôi tỏ lời khen bà đã cứng rắn đối với tai nạn xấu xa như vậy. Bây giờ có Chúa, tôi ghi lại điều nầy để làm gì? Ðể hy vọng linh hồn bà ấy được cứu ra khỏi tối tăm. Nếu bà ấy muốn, tôi nghĩ rằng đây là cơ hội cho bà minh oan và tôi sẵn sàng chứng minh những gì tôi đã viết. Sự thật luôn luôn còn. (Tội lỗi là một sự thật, và luôn luôn còn nếu không được rửa bằng Huyết Chiên Con được sắm sẵn từ trước sáng thế). Tôi viết những lời nầy mà trong lòng vẫn thương bà, thương cái thân phận tội nhân của bà như nhìn lại cái xác chết tội lỗi của tôi ngày trước. Ôi con người có tội thật đáng thương thay. Truớc mặt Chúa tôi không tốt hơn ai cả, nhưng tôi được tự do vì tội mình đã được rửa trong huyết Chúa Jesus Christ, nay mình được sống bằng một con người mới. Ai ở trong dòng Huyết Cứu Chuộc thì biết giá trị của Thiên Ðường sau khi dám ăn năn xưng tội với Chúa.

Tình yêu quý thật, không có nó làm sao người ta tìm ra ý nghĩa của cuộc sống được. Nhờ tình yêu mà tôi sống được với bà ấy 12 năm và viết nhiều bài thơ. Quan trọng nhất là bài thơ Nước, tôi đã cho bà ấy đọc nhiều lần. Riêng bà ta đã nhiều lần ngâm bài thơ Tóc trước mặt bạn bè. Ðến nay, tôi nghi ngờ rằng bài thơ Tóc không phải của bà ấy. Vì ai đã làm được bài thơ Tóc thì không thể chỉ tiếp tục sống mà không làm thêm một bài thơ nào khác. Nó là như sau:

Tóc

Không là suối, là mây, là đại dương, là sóng lụa.
Tóc em kết tinh từ sao trời của một thái dương hệ xa xăm.
Con chim vành khuyên và tơ trời nguyên thủy
Sẽ ca và đậu trên tóc em.
Cho anh xin hai sợ thóc
Ðể kết thành chiếc võng mùa thu
Ngủ giấc ngàn đời không mộng mị.
Hồn thơ anh bay hoài khôn biết mệt
Và vô cùng trên chín tầng mây.
Cho anh xin thêm sợi nữa
Làm thòng lọng treo trên cành trâm bầu
Ðể thắt cổ chết đi
Ðể khỏi phải ước mơ,
Khỏi phải sống với những đêm trằn trọc
Vì thương nhớ tóc!

(Tôi viết theo trí nhớ. Nếu có gì sai sót, xin tác giả bỏ qua)

Bài thơ nầy không hay vì chất thơ mà hay vì tính sáo ngữ của nó đã đạt đến chất lượng của thiền thi cổ xưa, nhưng thiền thi thì mang đầy chất thơ. Bởi thế sau khi vợ tôi nói “em có bầu, anh về ở với em” là tôi về ngay và hy vọng rằng sau nhiều cuộc đảo điên phải đến hồi bà ta tỉnh ngộ. Tôi rời quê vợ ở Phước Hải về Sài Gòn săn sóc cái bầu của vợ, cái bầu chữa trâu đến 13 tháng mà chưa đẻ. Thời gian đó tôi để gì ở đâu là quên ngay sau đó, vì tâm hồn tôi bị chìm vào những suy tư về tình chồng nghĩa vợ đối với cái bầu 13 tháng mà chưa đẻ! Những lúc hoang mang như thế, nhưng tôi vẫn yêu bà ấy và quý cái bầu của vợ mình. Tôi biết chắc rằng bỏ vợ thì quá dễ, mà đời mình sẽ chẳng được gì ngoài vết đen tàn nhẫn với phụ nữ. Tôi quan niệm ai đối xử tàn nhẫn với phụ nữ là người dám tàn nhẫn với mẹ mình. Không hiểu sao tôi rất quý người phụ nữ. Tôi quý những gì mà Thượng Ðế không ban cho tôi nhưng Người đã vì tôi mà ban cho người phụ nữ. Cho nên tôi cũng tin rằng Người vì một người phụ nữ mà ban cho tôi những gì cô ta không có. Cũng có lẽ vì tôi yêu mẹ tôi, nên tôi yêu người phụ nữ và yêu trẻ con. Khi còn yêu vợ, mình còn hy vọng đến ngày bà ấy bày tỏ sự thật trước tình yêu và sự bền chí của mình. Tôi không ngờ Chúa biết hết những ý nghĩ của tôi, Chúa biết hết sự hạn hẹp phù du của tôi, do đó Người đã chuẩn bị cho tôi Ơn Cứu Rỗi trong Con Một của Người. Khi con tôi ra đời, mọi sự lẩm cẩm của tôi cũng qua. Ðứa nhỏ rạng rỡ nguy nga đến nỗi tôi không muốn nhớ đến chuyện mang bầu 13 tháng nữa. Vì con ai thì mình cũng yêu được và yêu thật lòng mới có hạnh phúc với con. Tôi đã tức khắc giải phẩu kế hoạch hóa gia đình để tình trạng nghi nan nầy không thể xẩy ra một lần nào nữa. Cuối cùng chính đứa bé nguy nga vô lượng là cái cớ để Chúa kêu gọi tôi trở về trong sự thương xót của Người qua lời khuyên của Bùi Giáng. Dù ngày nay nó không còn xem tôi là cha nó, nhưng tôi yêu nó và quý nó hơn một đứa con bình thường. Nó là đứa con kỳ diệu tuyệt vời đáng yêu hơn bất cứ đứa con nào của tôi. Mẹ nó đã vu cho tôi những tội ác xấu xa đáng khinh đến nỗi nó không đủ can đảm xem tôi là cha nó, dù mắt nó chưa hề thấy tôi có những tội ác xấu xa nào ngoài tình yêu của tôi đã dành cho nó. Ðiều nầy cho tôi thêm một chứng cớ nữa để nghĩ rằng chính bà ấy đã biết cha thật của nó là ai thì mới ăn cắp nó ra đi và dạy cho nó những điều xấu xa về tôi để cắt đứt được tình cha con thiêng liêng giữa nó với tôi. Trong linh hồn tôi, nó là con tôi và hơn cả ý nghĩa của một đứa con nữa, vì nó là nguyên cớ cuối cùng và trực tiếp nhất của Ơn Cứu Rỗi mà Chúa đã nói trong Kinh Thánh (Ma-thi-ơ 11:25-26-30). Ðứa con nầy cũng đã là nguyên cớ trực tiếp giải cứu tôi qua nhiều tai nạn, nhiều biến cố cho đến khi tôi được Chúa cứu rỗi linh hồn.

Tôi nhớ lại buổi tối Mùng Một Tết trong năm 1980, em vợ tôi là Cậu Mười xin tiền tôi để đi nhậu nhưng tôi không cho vì cậu ấy say quá rồi. Cậu Mười đã bắt chước Hòa Lễ mắng tôi một câu: “mày là con chó đói miền Trung, ăn tiền của chị tao, thấy chị tao giầu mà nhảy vào hốt của”. Trước sự hiện diện của bố vợ tôi, các anh chị em vợ tôi, tôi gọi bà ấy ra để nhờ bà xác nhận lại rằng bà có giầu thật hay không và tôi có phải là “con chó đói” hay không. Nhưng thật là kinh khủng, vì ba lần tôi yêu cầu bà ấy xác nhận là cả ba lần bà ấy im lặng. Khi ấy trong trí tôi hoàn toàn nhìn thấy một con dao để chặt thằng em vợ ra ba khúc cho chó ăn và sẵn sàng tự sát để dạy cho bà bài học cuối cùng. Nhưng bất chợt đứa con tôi chạy rề rề bằng cái xe đẩy tới sát tôi và nó cười để ló ra mấy cái răng mới mọc. Nét đẹp tuyệt vời của con tôi đã khiến linh hồn tôi nói rằng “con đẹp nguy nga hồn hậu như thế nầy mà bố phải chặt cậu Mười ra ba khúc cho chó ăn; đời bố thì không sao, nhưng đời con sẽ đau đớn lâu dài. Thôi bố đổi ý ngay để còn được sống với con và sống cho con. - cám ơn con đã cứu bố”. Sau khi cậu Mười qua Mỹ, đã viết thư về xin lỗi tôi, mặc dù tôi không bắt lỗi cậu ấy, vì tôi biết cái lỗi chính là ở nơi bà vợ của tôi. Khi đọc thư cậu Mười cho bà ấy nghe, bà ta cho rằng “chính anh là người gian ác, chuyện nhỏ nhặt như thế mà cứ nhắc lại! “ Lòng người che giấu tội lỗi kinh khủng thật. Khi cậu Mười vượt biên qua Mỹ và viết thư về xin lỗi tôi là khi vợ chồng tôi đã tin Chúa. Nhưng bà ấy chưa một lần công nhận mình có lỗi!

Tôi nhớ lại giai đoạn hai mẹ con ra đi đã làm cho tôi lẫn trí thêm một lần nữa mặc dù lúc nầy tôi đã có Ðức Tin trong Chúa. Ði uống cà phê xong, bỏ xe dọc đường lội bộ về nhà. Ngồi trước quán nước, tôi thấy một người mở khóa dẫn xe mình đi, nhưng đầu óc tôi tưởng như xe của họ. Uống nước xong, tôi không thấy xe mình. Cầm chìa khóa xe trong tay, định thần nhớ lại, tôi sực tỉnh là hồi nãy người ta rờ vào chiếc xe và từ từ dẫn đi trước mắt mình. Chủ quán cũng nói thế. Tôi cảm thấy xấu hổ quá chừng và sợ sệt. Có một lần đem xe đi sửa rồi cũng quên trở lại lấy xe. May mà không mất. Trong vòng hai tháng tôi đã hai lần mất xe như thế, xấu hổ quá không dám nói với ai. Sau cùng tôi phải mua một chiếc xe mô tô cũ loại BMW đời R 26, vừa rẻ tiền vừa vứt đâu cũng không sợ mất. Có khi trôi chạy xe ngoài đường vào ban đêm qua những con đường Chợ Lớn nơi mà tôi đã từng chở con tôi đi lượm pháo tết trong giờ giao thừa. Chạy một hồi, tôi thấy mình đã ra xa lộ khi nào và về tới Long An khi trời hừng sáng. Tôi sực tỉnh, biết mình đã lẩn quẩn từ ba giờ sáng đến khi mặt trời mọc. Dựng xe trên đường, tôi xuống dưới ruộng ngồi khóc như ngồi đại tiện, vì sợ mình khóc trên đường lỡ ra người ta thấy là kỳ cục lắm. Khóc được là một liều thuốc quý đối với tôi. Khóc một hồi lâu tôi mới hoàn hồn đi kiếm gì ăn và định hướng trở về. Thế mà tôi không về nhà, lại đi tìm những người quen. Tôi hay ghé quán cà phê Hạ Trắng của K. N gần chùa Vĩnh Nghiêm. K. N là bạn của vợ tôi, mới ly dị chồng trước tôi vài ba tháng, đã từng làm thư ký riêng nhiều năm cho bà Bảy Huệ, vợ tổng bí thư Nguyễn Văn Linh. Hiện nay cô ta đang ở Mỹ và cũng có mối liên hệ với bà vợ đặc biệt của tôi. Cô K. N đã gởi E-mail cho tôi để phản đối quyển sách Từ Áo Cà Sa Ðến Thập Tự Giá. K. N cho rằng “anh viết như thế thì sẽ làm cho chị M khốn đốn trong giới Tin Lành”. Cô K. N trách tôi như thế chẳng khác gì trách một người bị sát hại mà không chịu im lặng để chết lại còn la lớn lên khiến cho kẻ sát nhân bị lộ! Thật ra tôi chỉ muốn im lặng để sống yên thân, nhưng tiếc thay cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng. Nếu tôi không đưa ra ánh sáng một phần của sự thật nầy, thì sau khi tôi về với Chúa, Satan vẫn dùng những con người như thế để lừa phỉnh và làm sa ngã biết bao nhiêu người nữa.

Ðổ vỡ gia đình, mất luôn cả đứa con yêu dấu, một mình tôi mang tiếng xấu giữa xã hội và hội thánh. Quả thật là kinh khủng. Trong tình trạng đó, có khi tôi cảm thấy thèm có một người đàn bà để ôm mà khóc, để nói muôn ngàn chuyện lòng đau đớn và tối tăm. Nhiều người đàn bà đã đến với tôi, nhưng tôi bỏ họ rất dễ. Ðây là giai đoạn tôi cầu nguyện rất khó khăn chứ không như thời gian tôi gặp tai họa vượt biên. Tôi yếu đuối vô cùng và chỉ cầu nguyện hững hờ. Ấy chỉ vì lòng tôi nghĩ rằng nếu mình không cầu nguyện là sẽ bị điên hoặc chết ngay. Ðiều tôi cầu nguyện là xin Chúa cho bé Phương khỏe mạnh, ngoài ra tôi không biết nói gì với Chúa. Mười ngày đầu tiên sau khi hai mẹ con ra đi, tôi đóng cửa phòng, kiêng ăn cầu nguyện. Nói là kiêng ăn cầu nguyện nhưng tôi uống sữa và nằm im thiêm thiếp ban ngày, mở TV, nửa thức nửa ngủ. Có khi chiêm bao đủ thứ. Ban đêm tôi chạy xe ngoài đường. Khi gia đình Xuân Loan cho tôi một lá thư tay có chữ của bé Phương và chữ của bà ấy, tôi bắt đầu viết nhật ký cho nó, vì nghĩ rằng nó còn sống, sẽ có một ngày nó đọc di chúc của tôi. Bà ấy viết thư về xin tôi giúp đỡ, tiền bạc, giấy tờ để vượt qua phỏng vấn. Tôi đã làm tất cả những gì có thể được để giúp bà ấy theo như bà yêu cầu, nhưng tôi không viết thư cho bà ấy mà chỉ viết cho con tôi. Có khi tôi nghĩ đến việc viết một lá thư cho bộ nội vụ Thái Lan để nói rõ sự thật và yêu cầu họ trục xuất bà ta về VN, nhưng nghĩ đến con, nghĩ đến Ái Nhi, người đi cùng chuyến với bà ấy, tôi không nỡ làm thế. Dù sao hai mẹ con còn sống và còn hy vọng ở một nước nào đó vẫn tốt hơn là trở về. Nghĩ thế, tôi đã định thần để giúp đỡ họ.

Tôi bắt đầu dẹp xưởng máy và cho thuê mặt tiền trước nhà để có chút tiền sống qua ngày. Tôi nhớ lại ngôi nhà nầy là bằng chứng Chúa nhậm lời cầu nguyện đầu tiên của tôi khi đức tin trong tôi còn non nớt. Năm 1984, Chúa đã làm một phép lạ đặc biệt trong ngôi nhà nầy. Ðó là câu chuyện Cô Huệ, người hàng xóm của tôi, một bịnh nhân mù và bại liệt bị “bỏ quên” trong bịnh viện Nguyễn Tri Phương. Chúng tôi làm chứng cho cô Huệ tin Chúa khi cô chưa vào bịnh viện, sau đó cùng anh chị em ở Hội Thánh Nguyễn Trãi đưa cô Huệ về tịnh dưỡng trong nhà tôi theo sự đồng ý của ba mẹ cô Huệ. Hằng ngày, các anh chị em con cái Chúa (người Hoa làm nghề thuốc bắc) thuộc Hội Thánh Nguyễn Trãi đã đến làm thuốc, băng bó các vết lỡ trên cơ thể cô Huệ. Những vết lỡ đã khoét sâu vào xương mông và xương sống của cô Huệ khiến mùi hôi bốc ra thật là kinh khủng. Chúng tôi để cô Huệ ở trong nhà suốt mấy tháng. Tổ dân phố đã từng đem câu chuyện nầy để tuyên dương gia đình tôi có thinh thần giúp đỡ người láng giềng, nhưng không ngờ đó chỉ là âm mưu của chi bộ Ðảng. Họ làm bộ ngợi khen gia đình tôi nhưng chờ cô Huệ qua đời rồi ập vào nhà tôi để chụp hình đăng báo vu khống Tin Lành gây án mạng nhằm thu hút cảm xúc quần chúng để truyền đạo. Ðây là một kế hoạch đàn áp Tin Lành, vì trước lời khen của tổ dân phố, tôi đã bày tỏ rằng nhờ Ơn Chúa tôi mới giúp đỡ cô Huệ. Âm mưu của chi bộ Ðảng Cộng Sản Phường 7, Q 5 lọt vào tai tôi trước khi cô Huệ tắt thở chừng 3 phút. Vừa nghe tin mật nầy, tôi rất băn khoăn. Phản ứng của tôi là đến bên giường thăm cô Huệ. Ngay khi ấy tôi nhận ra cô Huệ vừa mới tắt thở. Người cô đang nóng. Trước đó chừng 15 phút, tôi vẫn còn nghe tiếng rên của cô ấy. Tôi lặng lẽ qua nhà cô Huệ (một nơi buôn bán, không đủ chỗ cho con mình nằm) yêu cầu kêu xe xích lô máy đưa cô Huệ vào bịnh viện cấp cứu. Xích lô máy ghé vào cửa, người nhà ẳm cô Huệ trên tay, ngồi lên và xe chạy... Chỉ mấy phút sau, công an ập vào nhà tôi hỏi “cô Huệ đâu, ai âm mưu giết cô ấy để truyền đạo phải không? “ Không tìm thấy cô Huệ, những tay công an chìm và nổi đã ngỡ ngàng tức tối. Chúa cho biết đúng lúc. Người tể trị sự việc xẩy ra một cách tự nhiên để tôi tỉnh táo đối phó thật là dễ dàng. Kẻ ác mất cơ hội vàng son để xuyên tạc Tin Lành. Chúa biết dân tộc tôi còn cứng lòng, dễ tin lời xuyên tạc của cộng sản hơn là tin lẽ thật, do đó Người không để cho tôi bị hại một cách vô ích. Nếu họ kịp vào nhà tôi để chụp hình đăng báo về vụ án mạng “Cô Huệ”, chắc chắn Tin Lành bị nghi ngờ, vì không ai tin rằng tôi làm công việc đó bởi tình yêu thương của Chúa. Chúa đã dùng một người đặc biệt để cho tôi biết kế hoạch bí mật của cộng sản. Họ đã chuẩn bị làm scandal để đưa lên báo chí với hình ảnh tên tuổi hẳn hoi để bắt giam tôi, đánh gục toàn bộ uy tín Tin Lành, tịch thu căn nhà 32 Lương Như Học mà tôi đã nhiều lần làm chứng rằng Chúa nhậm lời cầu nguyện của tôi và ban cho tôi ngôi nhà nầy. Ðây là một phép lạ diệu kỳ. Chúa luôn luôn tuyệt vời. Tạ ơn Chúa, Người biết trước rằng nếu tôi bị bắt, bị vu khống như thế thì người thân nhất trong gia đình tôi cũng tin rằng tôi là một người cuồng tín và lợi dụng Tin Lành vì những mục đích mờ ám nào đó. Sau biến cố nầy, tôi hiểu câu Kinh Thánh mà trước đó tôi không hiểu: “Cơn giận loài người hẳn sẽ ngợi khen Chúa, còn sự giận dư laị thì Chúa sẽ ngăn trở” (Thi-thiên 76:10). Nếu không có quyền năng của Ðấng Tạo Hóa vô hình, loài người gian ác vô cùng!

Giải tán xưởng cơ khi, tôi cho mướn nhà để sống, không ngờ phải đối đầu với một trận chiến mới. Người ta hỏi chủ nhà đâu để khai lại thủ tục thuê nhà của chính phủ. Tôi không biết phải ăn nói như thế nào, vì chủ nhà đứng tên thuê đã vượt biên bị cắt hộ khẩu. Tình trạng thủ tục thuê nhà của bà ấy suốt mấy năm dài vẫn dang dở. Lúc đó tôi đã có hộ khẩu thường trú nhưng lại trở lại tình trạng cô thế bấp bênh. Tôi trì hoãn, hẹn rày hẹn mai với Phòng Quản Lý Nhà Ðất để kiếm cách xoay xở. Lạ quá lúc đó tôi được bác sỹ Trần Ðình Xiêm tuyển vào làm nhân viên xã hội tại bịnh viện tâm thần Chợ Quán, tôi có tư cách công nhân viên nhà nước để lấy lý do được lưu cư tại nhà 32 Lương Nhữ Học. Ðến 1993, một cán bộ có thế lực đến ở với sự hợp đồng của Phòng Quản Lý Nhà Ðất Q. 5. Ông ta đền bù cho tôi để ra đi tìm nơi ở khác. Ðây cũng là một phép lạ Chúa, nhờ vậy tôi có điều kiện gởi cho hai mẹ con một ít tiền để giữ mối dây liên lạc với con tôi. Có lẽ bà ta biết thâm ý của tôi nên một mặt nhận tiền, mặt khác tìm cách phá nát tình phụ tử thiêng liêng của cha con tôi. Ðứng về việc ác, tôi phải nói rằng bà M tài ba thật.

Nhờ làm việc với các bác sỹ tâm thần, tôi tham gia các khóa học tâm lý với anh em sinh viên y khoa 5, nghe các báo cáo khoa học hàng tuần của các giáo sư bác sỹ, dự học một khóa bịnh tầm thần trẻ em do các bác sỹ Pháp đến giảng dạy. Nhiều bác sỹ đối xử tốt với tôi như bác sỹ Thái, bác sỹ Khuê, Nuôi, Hải, Linh, Ðức và nhiều cô y tá, nữ bác sỹ cũng đem lại cho tôi nhiều tình cảm. Tôi gặp khá nhiều người bị đổ vỡ gia đình và đau khổ tới độ bị bịnh tâm thần. Xã hội Việt Nam là một xã hội có nhiều người bị tâm thần mà ít được quan tâm. Tôi chứng kiến cách choáng điện để làm động kinh nhân tạo cho hàng loạt bịnh nhân vào mỗi buổi sáng. Thật là kinh khủng! Nhờ quan sát, tiếp xúc với nhiều bịnh nhân, tôi đã nhận diện một phần nào căn bịnh của mình qua sự soi gương trên họ. Dần dần tôi hiểu được lối mòn của hệ thống tham nhũng, hệ thống mua bán đổi chác quyền lợi trong bịnh viện tâm thần và sự kềm kẹp an ninh chính trị của ban bí thư chi bộ. Một bà bác sỹ người Cam Lộ, Quảng Trị cầm quyền điều tra từng lý lịch của tôi. Những phe cánh làm ăn, những vụ đút lót để được khám cho người xuất cảnh... Bịnh viện cộng sản có cả một hệ thống tham ô không ai tránh được. Hệ thống tham ô có dây dưa chằng chịt như hệ thống mafia. Ai không chịu ở trong mê hồn trận ấy là bị đào thải dễ dàng. Người ta chen chúc, chèn ép nhau từng lời nói, từng bữa ăn, từng công điểm, từng gói quà... Nhờ làm việc tại Trung Tâm Sức Khỏe Tâm Thần Chợ Quán, tôi hiểu thêm tình trạng sức khỏe tâm lý của mình. Ðặc biệt mỗi khi tôi có cảm giác nặng trên mặt và hai mí mắt khó mở lớn, tôi tự ý thức rằng đây là hiện tượng trầm uất, cần sự cầu nguyện với Chúa. Cứ vào buổi trưa là đầu óc tôi không suy nghĩ được nữa mà chỉ muốn xách xe chạy quàng. Tôi sợ văn phòng, sợ bất cứ ai nhìn vào mặt mình, nhưng lại muốn quan sát mặt mình trong gương. Tôi thích nằm trong bóng tối hay là nơi hoang vắng. Thời gian không bao lâu thì tin đồn tôi có vợ vượt biên đến tai bà bí thư chi bộ. Bà gọi tôi lên để ra giá cho tôi xoay xở cách làm hồ sơ xin biên chế chính thức. Tôi từ chối và bị bà cho nghỉ việc với lý do “lý lịch vợ con không rõ ràng”.

Cái tết năm 1991 đối với tôi thật là kinh khủng, vì đây là cái tết đầu tiên tôi vừa mới mất cả vợ lẫn con, sự mất mát nầy còn tươi như con gà đang bị cắt tiết, nó nghe máu của mình chảy ra mà không làm sao cựa quậy nổi. Các cháu về quê. Tôi ở nhà một mình. Nhìn từng kỷ niệm của con mình trong ngày tết, tôi nghĩ rằng trọn đời không bao giờ tôi có thể diễn tả được nỗi đau nầy. Hơn 10 năm qua, nhờ sự mất con, tôi ý thức sâu xa về chữ hiếu mà Chúa dạy trong Kinh Thánh và mối liên hệ Cha Con trong Chúa. Những ngày tết đau thương ấy không thể nào diễn tả được. Một người mới bị đổ vỡ gia đình, cùng một lúc mất luôn cả con lẫn vợ mà phải sống một mình trong ngày tết là vô cùng kinh khủng. Ngày tết lại là ngày nhiều con nợ tới hỏi thăm. Bất cứ tội lỗi gì cũng có thể xẩy ra. Nếu không tự sát thì tà dâm, nhậu nhẹt hoang đàng, hút xách và điên. Có thể giết người cũng không chừng.... Nhưng tôi phải nói rằng Cảm Tạ Chúa Người Ðã Cứu Con như đứa con trai tôi đã nói năm 1985 trong bịnh viện Nhi Ðồng 1. Dù tôi rất yếu đuối, nhưng nhờ đức tin trong Chúa, lúc nào tâm hồn tôi cũng yêu quý mạng sống mình. Một đặc điểm khi có Chúa là mình yêu quý mạng sống của mình vì tin rằng mạng sống nầy do Chúa tạo nên và Người yêu nó. Bởi thế không bao giờ ý định tự tử lai vảng trong tâm tư tôi nữa. Dù đôi khi buồn bã sa sút, nhưng nhờ ơn Chúa, tôi không còn nghĩ đến tự tử như trước, đó là một bằng chứng lớn lao của Chúa đã chăm sóc linh hồn và thân xác tôi. Khi ấy tôi không thấy rõ, nhưng bây giờ ghi lại tôi cảm tạ Chúa. Bởi lẽ đã hơn 12 năm gia đình tôi đổ vỡ hoàn toàn, Chúa vẫn cho tôi vui để sống nhiều hơn là buồn để chết. Giai đoạn mới đổ vỡ gia đình là giai đoạn nhục nhã đau thương nhất của đời tôi: Nhưng khi ở trong Chúa dù yếu đuối, thất bại đến mấy cũng vẫn còn một sức sống và niềm hy vọng để bước đi như lời Người dạy trong Châm Ngôn 24:16 “Người công bình sa ngã bảy lần cũng trổi dậy. Còn kẻ hung ác bị tai vạ đánh đổ. “

© 2025 NGUOI TIN HUU - All Rights Reserved.NGUOITINHUU