Nguoi Tin Huu Logo
  • Trang Nhà
  • Trang Chính
    • CHIA SẺ
      • ĐỖ TRÂN DUY
      • Lm. HỒNG GIÁO
      • NGUYỄN HUỆ NHẬT
        • TỪ ÁO CÀSA ĐẾN THẬP TỰ GIÁ
        • AI CHẾT CHO AI? AI SỐNG CHO AI?
        • ĐỐI THOẠI VỚI MỘT PHẬN TỬ
      • NHIỀU TÁC GIẢ
    • DÒNG MÁU ANH HÙNG
    • ĐƯỜNG VÀO ĐẠO
    • HIỂU ĐỂ SỐNG ĐẠO
    • HÔN NHÂN CÔNG GIÁO
    • HỘ GIÁO
    • LỊCH SỬ GIÁO HỘI
    • MÁI ẤM GIA ĐÌNH
    • PHỤNG VỤ
      • Bài Giảng
      • Các Nghi Thức
    • SÁCH & TRUYỆN
  • Trang Hàng Ngày
    • GƯƠNG THÁNH NHÂN
    • SUY NIỆM HÀNG NGÀY
  • Trang Ngoài
    • VIETCATHOLIC
    • CẦU NGUYỆN BẰNG THÁNH VỊNH ĐÁP CA
    • HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VN
    • DÒNG CHÚA CỨU THẾ VN
    • DÒNG TÊN VN
    • LIÊN HIỆP BỀ TRÊN THƯỢNG CẤP VN
    • TRANG SỨ GIẢ TÌNH YÊU

Nguyễn Huệ Nhật - AI CHẾT CHO AI? AI SỐNG CHO AI?

GẶP CHÚA (tiếp theo)

Bởi Ðức Tin, Hữu Hạn Ðược Ðặt Trong Vô Hạn

Tất cả những gì con người nghĩ ra, con người thực hiện, dù là cao siêu đến mấy, thì cũng bị giới hạn giữa thế gian hẹp hòi nầy mà thôi. Khi từng bước tiếp nhận năng lực của Ðấng Vô Hạn, con người có thể từng bước đi vào thế giới vô hạn. Nhưng con người không thể tạo ra một cái gì vô hạn dù là trong tưởng tượng của mình. Sở dĩ chúng ta thấy nhiều điều vô hạn, vì chúng ta vốn là tạo vật hữu hạn. Cái được gọi là vô hạn trong tâm trí chúng ta cũng chỉ là hữu hạn đối với Ðấng Toàn Năng. Cái vô hạn thật là ở trong Ðấng Tạo Hóa toàn năng. Bắt đầu nhận thức như thế, Ðức Tin của Chúa nhiều hơn đức tin của tôi. Thoạt đầu tôi tưởng mình đã có đức tin, nhưng càng ngày đức tin trong tôi càng thêm vững mạnh bởi những sự kỳ diệu của Thiên Chúa đem vào lòng tôi để tôi nhận biết rằng Ðức Tin là một tặng phẩm của Thiên Chúa ban cho tôi, và bởi đó, tôi hiểu thêm rằng mình nhận được Ðức Tin từ nơi Người là nhận được hồng ân thiêng liêng tuyệt diệu. Vì có nhiều chứng cớ Chúa làm ra khiến mình tin Người nhiều hơn là mình hành động để tin. Ðức Tin bước vào lòng tôi để giải đáp biết bao điều rắc rối âm u, để linh hồn tôi được yên nghỉ thảnh thơi vui cười. Tôi cảm thấy lòng mình tạ ơn Chúa trong giấc ngủ, khi ăn uống, lúc làm việc và suy gẫm nhẹ nhàng. Tôi thấy rõ Ðức Tin là một tặng phẩm của Ðức Chúa Trời để tôi yên nghĩ và Người tiếp tục sự sáng tạo của Người trong tôi. Hôm nay tôi là một tạo vật mới của Người mỗi ngày. Như Môi-se đã cầu nguyện: “Ôi! Xin Chúa cho chúng tôi buổi sáng được thỏa dạ về sự nhân từ Chúa; thì trọn đời chúng tôi sẽ hát mừng vui vẻ.” (Thi Thiên 90:14)

Tình Trạng Ðức Tin Non Nớt, Sự Sống Thiêng Liêng Chưa Lớn Lên

Bước đầu mới trở về trong Chúa, niềm vui dồn dập choán lấy lòng tôi, quả thật tôi náo nức như đứa trẻ tung tăng trong đồng cỏ và như đã bỏ quên ý định tự tử lâu lắm rồi. Những ngày đầu (1980-81) mới nhận được đức tin, tôi vui mừng ca hát như trẻ thơ bất cần thế sự. Ngồi trên chiếc xích lô đạp dạo vòng vòng, tôi mơ ước có người khách đi một đoạn đường xa để mình nói cho họ nghe câu chuyện Chúa Jesus. Nhưng sự thật thì tôi chưa biết cầu nguyện với Người ngoài những lúc tôi cầu nguyện thử. Ðôi khi xe ế ẩm, tôi quay về nhà thăm con và đốt một cây nhang khấn vái để mong gặp mối chở khách kiếm tiền và nói chuyện về Chúa Jesus! Lúc đó tôi tin Chúa một mình, chưa đi nhà thờ, chưa biết gì về lẽ đạo, chưa hiểu thế nào là thờ phượng Chúa, chỉ cảm biết mình có niềm vui từ trong lòng phát ra, còn nỗi buồn thì vẫn tiếp tục từ bên ngoài đi vào như đạp xe ế ẩm, con đau, vợ trở chứng, cãi lộn với khách khi họ lừa phỉnh mình, bị công an rượt đuổi, v. v. Ðến khi tìm đến nhà thờ tôi mới được nghe mục sư giảng. Thời gian đầu ngồi trong nhà thờ, lâu lâu tôi còn phải ra ngoài để hút điếu thuốc Ðồ Sơn, Tam Ðảo. Thế mà Chúa vẫn cứu tôi ra khỏi những ràng buộc nhỏ nhặt như nghiện thuốc lá, bia rượu để dẫn tôi vào thế giới tự do hơn. Thời gian mới tin Chúa, tôi chưa có nhiều kinh nghiệm sự sống trong Lời Chúa nên nghĩ rằng mình vượt biên để tìm cơ hội học thêm đạo Chúa và phục vụ Người. Nhiều lần đi mà không thành công, lần sau cùng tôi đi theo sự tổ chức của gia đình bên vợ tôi, nhưng không ngờ đây cũng là một sự tổ chức vì tiền nhiều hơn là để giúp người ra đi lánh nạn. Khi đã bị đổ bể, người tổ chức có lời còn người ra đi thì mất của và bị tù tội.

Chị ruột của nhà tôi là vợ ông bí thư xã Phước Hải cùng với nhà tôi đã thu góp tiền, vàng của nhiều người ở Sài Gòn để mua ghe của một người bà con họ hàng tên là bà Bảy Thấy. Tôi không có tiền nên giới thiệu bạn bè và người quen cho họ để được đi. Theo như vợ tôi nói thì đã mua được công an xã Phước Hải. Trưởng công an xã Phước Hải lúc đó cũng là bà con bên gia đình vợ tôi. Khi công việc đổ bể tôi mới thấy những dấu hiệu lường gạt, nhưng đành im lặng. Gia đình bên vợ tôi là gia đình liệt sỹ, họ hàng thân tộc đều nằm trong chính quyền địa phương nên mới thuyết phục được khách vượt biên! Từ mấy năm trước đó, gia đình Bảy L, anh vợ của tôi, đã biết lợi dụng ngôi nhà từ đường của bố vợ tôi rất thành công. Anh ấy là một người vui tính lanh lợi và kiên nhẫn. Là một sỹ quan cảnh sát Quốc Gia bị học tập cải tạo, anh ấy về ở trong ngôi nhà từ đường để rề rà hằng tháng đóng kịch ăn nhậu với công an địa phương và đi trót lọt. Nhờ vậy, ngôi nhà nầy đã trở nên một địa điểm tốt để thuyết phục những người vượt biên đóng tiền ra đi. Chuyến đi mà tôi tham dự đã sử dụng ngôi nhà nầy để làm nơi “ém quân” trong đêm cuối cùng. Nhưng kết quả là khoảng 20 người bị bắt, trong đó có người chị ruột của vợ tôi cũng bị du kích bắt vào ban đêm, khi đang dẫn khách dọc đường. Nhưng ngay sau đó vợ tôi vào văn phòng xã nhận tội thế cho chị ấy. Tôi ở nhà ông già vợ ngồi bó gối đợi du kích vào bắt. Ðến khi trời sáng, chú em vợ tôi khuyên nên ẳm con đi ra ngoài, nếu trốn được thì tốt hơn. Tôi cõng thằng con trai tôi trên vai và đi bộ ra ngoài đường vừa lúc công an đi vào. Tôi không hiểu là họ không nhận ra tôi, hay có người trong đó muốn tha cho tôi được về nhà để nuôi con. Tôi có thằng em nuôi tên là Võ Văn Tài cùng đi chuyến nầy, nhưng không hiểu nó bị bắt hay không.

Trời sáng hẳn, tôi cõng thằng con trai đi bộ ra đường hướng về nhà B. Hồ, bạn học của vợ tôi để nhờ B. Hồ giúp đỡ. B. Hồ cũng định gởi con gái đầu lòng của anh ấy, tức cháu Linh đi trong chuyến vượt biên nầy. Khi tôi ngồi trong nhà B. Hồ, anh ta sợ quá nên đề nghị tôi cứ để thằng con tôi chơi với các con của anh ấy, còn tôi phải vào trốn trong chiếc quan tài của bà nội B. Hồ. Chiếc quan tài để phía sau hè nhìn ra vườn cây um tùm. Nằm trong hòm, tôi bị kiến tấn công liên tục. Mỗi khi trở mình thật là lấn cấn khó chịu. Ðại tiểu tiện là điều rắc rối nhất. Nằm suốt một ngày trong chiếc quan tài cho đến nửa đêm, thình lình tôi bị một bàn tay rờ vào chân mình và có tiếng chân bỏ chạy. Tôi gọi B. Hồ để hỏi ai đã thọc tay vào quan tài rờ đụng chân tôi. B. Hồ cam đoan là trong nhà không ai làm việc đó. B. Hồ còn cho rằng tôi quá sợ nên bị cảm giác ảo. Tôi năn nỉ B. Hồ hỏi lại cho kỹ, nhờ vậy anh ta biết du kích đã vào ngay trước ngõ. B. Hồ tức tốc nâng nắp hòm cho tôi chạy ngõ sau trốn vào khu rừng rú gọi là động Long Phù. Vào tới khu rừng rú, tôi định hướng để biết mình đang ở đâu và đâu là con đường để có thể chạy tiếp. Tôi mò ra một nấm mồ đã xây sẵn mà chưa chôn người, chui vào đó nằm im. Ðêm không có trăng, bầu trời vùng biển đầy sao, gió vi vu, lá cây xào xạc. Tôi bắt đầu kêu cầu Chúa ơi... Chúa ơi... Ban đêm nhìn từng ngôi sao rõ mồn một, tôi mở lòng thưa với Chúa tất cả rắc rối dại khờ bất lực của mình. Tôi càng kêu cầu càng thấy lòng mình ăn năn với Chúa, vì nghĩ rằng khi đã tin Chúa rồi, lòng mình đã có sự vui vẻ tràn trề, thế thì ở đâu chẳng được; tại sao mình nghĩ đến chuyện vượt biên làm gì để đến nỗi bị lâm vào cảnh khốn khổ như thế nầy! Rồi tôi ngủ thiếp được một chặp là trời rạng sáng.

Trời hừng sáng, tôi ló đầu lên nhìn ra biển, vầng thái dương lên dần thật là đẹp, nhưng tôi không hình dung nổi cuộc đời mình sẽ đi về đâu. Tôi bắt đầu tìm một bụi cây rậm rạp nhất và đào một cái hố để trốn. Khi trời sáng hẳn, tôi cảm thấy khát nước và sợ những người đi kiếm củi. Trong cảnh huống lẩn quẩn lùng bùng đó, tôi nghe xa xa có tiếng hú và dường như có ai gọi tên mình. Từ trong bụi cây nhìn ra, tôi thấy một người đàn ông dáng thấp, trên vai có một vật gì như cây đòn gánh. Anh ta vừa đi vừa hú và đảo mắt vào trong các bụi cây. Tôi nhận ra đó là Bông, một người bà con bên gia đình vợ tôi. Tôi im lặng quan sát để xem anh ta đang làm gì. Lúc đó tại xã Phước Hải, tôi có một người em ruột tên là Trường đang tạm trú với cả vợ con. Trường chơi thân với Bông, nên tôi đoán rằng có thể Trường đã liên lạc với B. Hồ, do đó Trường nhờ Bông vào trong nầy tìm tôi. Ðợi khi nghe rõ tiếng của Bông gọi mình, tôi mới dám lên tiếng. Bông trao cho tôi thức ăn và nước uống kèm theo một miếng giấy có chữ của chú Ba Phương, một người em họ của vợ tôi đang có uy tín trong chính quyền huyện Long Ðất. Miếng giấy ấy có mấy chữ như sau: “Anh Chín, tôi sẽ giúp anh về lại Sàigòn để còn cách nuôi cháu. 03 giờ khuya nay anh ra trước ngõ, tôi sẽ chở anh lên bến xe Bà Rịa. Phải về Sàigòn trước đã, chuyện gì sẽ tính sau. “

Bông trao cho tôi những thứ ấy và đề nghị một vài điều kiện thông cảm. Tôi lục trong túi lấy ra một ít tiền để cám ơn chú ấy. Vừa có thức ăn, nước uống và thuốc hút, nhưng tôi nghĩ rằng phải đợi cho đến hết một ngày và một đêm nữa mới được mò ra nhà chú Ba Phương. Ăn uống xong, cảm thấy khỏe ra, tôi đào cái hố sâu hơn nữa và muốn ngủ nhưng không thể nào ngủ được. Tôi cầu nguyện tiếp cho vợ con tôi và những người đã bị bắt. Khuya hôm đó tôi được chú Ba Phương chở lên Bà Rịa để về Sai Gòn.

Tôi phờ phạc về đến nhà, nhưng điều đáng mừng của tôi là ngôi nhà còn nguyên vẹn chưa bị niêm phong! Khi nằm ở nhà một mình an toàn mới bắt đầu sốt ruột không biết thằng con tôi trôi nổi nơi nào. Tôi không thể ăn uống tắm rửa gì được cả, lòng nóng như lửa đốt vì không biết con tôi bây giờ trôi dạt ở nơi đâu. Ðây là lúc tôi cầu nguyện tha thiết vô cùng. Hai ngày sau, Võ Văn Tài đến. Tôi vui mừng vì biết Tài không bị bắt. Tài Tức tốc đi tìm con cho tôi. Tôi chờ đợi thêm một ngày hôm sau nữa mới hy vọng gặp lại con mình. Ôi đó là những phút giây mà lòng tôi tan nát đau thương và sợ hãi, cũng là những phút giây mà tôi chỉ biết kêu cầu Chúa. Cảm tạ Chúa, Người nhậm lời một cách thật lạ lùng. Võ Văn Tài đã thoát về được, hắn đến nhà tôi dò tin tức và tình nguyện về lại Phước Hải tìm bé Phương cho tôi. Tôi không bao giờ quên Võ Văn Tài. Ðứa em tinh thần nầy đã hết lòng với tôi và đã trở về với Chúa ngay buổi tối đầu tiên tôi rủ hắn đi nhà thờ Trần Cao Vân. Lúc đầu Tài ẳm Bé Phương cho tôi lên cầu nguyện tin Chúa. Nhưng sau đó, Tài cũng đã lên cầu nguyện tin Chúa bên tôi. Hôm đó là tối thứ Bảy 3/01/1981, mục sư Ðinh Thiên Tứ giảng đề tài Cuộc Sống Và Những Mối Tương Giao.

Những ngày gian truân đó không thể nào tả xiết, nhưng điều kỳ diệu nhất là trong gian truân Chúa đã dạy cho tôi biết kêu cầu Người, và Người đã nhậm lời cầu nguyện của tôi mỗi ngày. Nhờ vậy, đức tin mới mẻ trong tôi bắt đầu có việc làm. Suốt ba tháng trường nuôi con và thăm nuôi vợ, và nương nhờ vào đức tin để chịu đựng. Những lúc đêm hôm, con tôi nhìn ảnh mẹ với nét mặt ngơ ngác hoãng loạn, tôi biết nó bất an vì nhớ mẹ. Con tôi gầy hẳn đi. Tôi ẳm con tôi về huyện Ðất Ðỏ để tìm cách thăm nuôi mẹ nó. Vợ tôi từ trong trại giam đã nhờ một công an đem tin tức ra ngoài. Hai cha con tôi đi bộ hàng chục cây số để tiếp xúc với công an theo sự hướng dẫn của bà vợ đang ngồi tù. Tôi nhờ cậy công an theo giá cả và sự lãnh đạo của vợ tôi khi bà ta đang “bị giam” ở đồn công an Ðất Ðỏ. Tôi trả tiền cho anh công an ấy để nhờ đưa con tôi vào cổng nhà tù chơi với mẹ nó một đôi lần, lúc đó cháu vừa đúng 21 tháng. Tết năm 1981, trời nắng như thiêu đốt, hai cha con tôi lang thang dọc con đường Ðất Ðỏ, Long Ðiền, An Nhất. Vì có Chúa trong lòng, tôi yêu mến vợ tôi và viết thư làm chứng, gởi Kinh Thánh vào tù cho bà ấy. Tôi đã ở tù nên biết lo thăm nuôi đầy đủ, hơn nữa tôi luôn luôn nghĩ rằng phải sống với tư cách một người chồng biết chăm sóc vợ con mới hy vọng chinh phục được con tim cộng sản của bà. Tôi viết nhật ký, làm thơ để gởi gắm tâm sự vào trang giấy. Tôi hy vọng bà sẽ hiểu thế nào là nhà tù cộng sản. Những ngày đó tôi viết nhật ký rất cẩn thận, nhưng sau khi bà vợ tôi trở về, một số thơ và nhật ký của tôi chưa cất dấu kịp đã bị mất như bao nhiêu lần trước. Tôi mất rất nhiều thơ, cuối cùng tôi biết ai đã lấy, cho nên nhật ký và thơ nháp của tôi sau đó được cất dấu một nơi khác. Hiện nay một số trang nhật ký của tôi vào giai đoạn nầy đang nằm tại New York, một người bạn thiết cất giữ cho tôi. Tôi nhớ một trong những bài thơ diễn tả hai cha con tôi đi lang thang giữa nắng để thăm nuôi bà ấy như sau đây:

Nắng rớt trên đầu con mẹ ơi
Nắng thiêu từng bước nhọc chân đời
Ngày xuân vắng mẹ con tìm mãi
Nắng đốt hồn con bay tả tơi

Nắng bởi Trời ban, mưa Trời ban
Con đi theo bố giữa điêu tàn
Ðôi chân bé nhỏ nương vào Chúa
Suối nói: “rừng đau, Phương thái an”

Nắng rớt trên đường trước và sau
Vô thần cộng sản rượt qua mau
Tóc con đội nắng đường Ðất Ðỏ
Hỏi bố bây giờ mẹ ở đâu?

Những ngày đầu tiên mới tin Chúa tôi chưa đi nhà thờ, nhưng sự bình an của Người đã kết thúc một chặng đường dai dẳng bi quan với những ý định tự tử của tôi. Sự bình an của Chúa là một sự mầu nhiệm lạ lùng hơn những điều mình có thể suy tưởng. Cho đến khi đi nhà thờ, học Lời Chúa, nhận biết rõ hơn về hai chữ tội lỗi, nhận biết sâu sắc hơn về sự tha thứ của Chúa đối với bản thân mình, nhận biết thêm rằng tình yêu của Người bao phủ với quyền năng và ấn chứng trong linh hồn mình toát ra những tình cảm, ý tưởng, ước muốn và hành động với lòng tin và hy vọng. Sự sống, sự chết, bề cao, bề rộng, bề sâu đều thuộc về Người. Mình chỉ là một kiếp người bé nhỏ mong manh đầy dẫy lầm lẫn buồn phiền, khúc mắc, hồ nghi... Thế mà mình đã nhận được Hồng Ân Cứu Rỗi! Vui mừng lẫn với bỡ ngỡ bùi ngùi. Tạ ơn Chúa! Tôi xem lại cả một quá khứ ngắn ngủi của mình đầy ắp những thất bại và bao nhiêu lần tôi đã suýt tự tử. Bao nhiêu lần tôi đã thay đổi con đường. Nhưng đều chỉ chuốc lấy thất bại buồn phiền cho đến khi được trở về trong Chúa và đi trong con đường hẹp của Người. Thường thường những diễn biến nội tâm, hoặc là những bước đổi thay quan trọng của tôi đều được ghi lại thành một vài câu thơ để làm kỷ niệm. Bài thơ nói về sự bình an khi trở về trong Chúa khác với những thất bại của thời gian cố gắng tu học của tôi như sau:

Hai Cuộc Tình

Tình thuở ấy đã quen chiều đổ vỡ
Hẹn ngày sau sao lại buổi đầu tiên
Tình nuối tiếc những mùa thu dang dở
Nhìn bản sao chỉ thấy những ưu phiền

Ta đã ở trong tình em mấy chốc
Cho chiêm bao thức dậy hỏi chào nhau
Và gởi lại trên lưng còng lão bộc
Tuổi măng non tình măng sữa ban đầu

Giờ vui quá tình ta thành bé nhỏ
Núp trong vầng đá tảng Ðấng Yêu Thương
Nay đã gặp ánh Sao Trời rất tỏ
Nhận tình ta và trao lại một Con Ðường

Con Ðường ấy đưa ta về ngõ hẹp
Ngập tình yêu trong ước hẹn ngày xưa
Ta sống lại bở tình ta đã chết
Tình yêu thương ta uống mãi chưa vừa.

Lúc bấy giờ niềm tin trong Chúa đem đến cho tôi những kinh nghiệm và sự xác quyết mới mẻ như vậy, nhưng đạo Chúa trong tôi chưa có gì ngoài những bông trái niềm vui vừa tràn đầy vừa thưa thớt. Tôi tin rằng Chúa đã tha tội cho mình, nhưng tôi chưa biết mình phải sống ra sao để đừng lặp lại những tội lỗi vốn đã quá quen thuộc từ lâu. Lúc đó tôi chưa có một ý thức, chưa có một cố gắng nào để làm đẹp ý Chúa cả. Những buổi nhậu nhẹt với bạn bè, những điếu thuốc lá, những thói hư tật xấu của tôi chưa có gì thay đổi hết. Tôi chỉ biết mình cần có Chúa, cần được Ðấng dựng nên trời đất che chở mình.

Cảm giác vui mừng đã giúp tôi ra khỏi sự chán nản và trân quý sự sống. Ý định tử tử cũng từ đây trốn đâu mất. Trước khi biết Chúa, những lúc gặp gian nguy như thế nầy, tôi tự phân bua một mình và nghĩ đến cách tự tử để thoát nợ. Trước đó, niềm tin của tôi trong đạo Phật vừa đầy dẫy mê tín, vừa nặng hình thức rườm rà. Ðạo Phật không dứt khoát dạy mình phải sống theo một cách thức nào cụ thể cả. Ðối với người bình dân thì rườm rà hình thức mê tín dị đoan, nhưng đối với người trí thức lại đầy dẫy triết lý cao siêu, mù mờ vô định. Từ Vô Minh cho đến Sanh, Lão, Tử. Từ biệt nghiệp đến cộng nghiệp, rồi sắc, không... Vòng vòng vô biên vô số kiếp, hóa hóa, sinh sinh, u u, uẩn uẩn. Nếu nhìn vào Phật Giáo bình dân, tôi thấy nhiều lẽ đạo sơ học thế gian bình dị và dễ thương. Nhưng khi nhìn vào Phật Giáo trí thức, tôi thấy rất nhiều tư tưởng dẫn đến sự kiêu ngạo và bản ngã cố chấp.

Nhiều người trí thức ưa nói những điều khó hiểu nhất để tỏ ra mình đã giác ngộ. Người trí thức Phật Giáo, nhất là các vị tu sỹ tiếng tăm hay giảng những điều cao siêu do họ nghĩ ra chứ không phải họ đã chứng ngộ. Ví dụ ở Nhật có Suzuki viết về thiền và sự cầu nguyện của người Cơ Ðốc Giáo, nhưng người chưa hề có kinh nghiệm thật về sự cầu nguyện của một người Cơ Ðốc Giáo. Sau khi tin Chúa, tôi đọc lại bộ Thiền Luận mới biết chương sách cuối cùng mà Suzuki viết là hoàn toàn do tưởng tượng của ông. Ông không có một chút thực hành nào về sự cầu nguyện của người Cơ Ðốc Giáo cả. Còn thầy Nhất Hạnh giảng về Ðức Thánh Linh trong khi người không hiểu một tý gì về Ðức Thánh Linh. Tại Ðức có một vị thượng tọa giảng ngược lại thầy Nhất Hạnh 180 độ. Tại Việt Nam, Thanh Từ giảng khác ba vị trên. Khi những bài giảng, những pháp môn tu của họ đụng độ nhau về uy tín cá nhân, môn phái và nhất là quyền lợi vật chất, thì họ phang nhau thẳng thừng. Nếu cần, tôi sẽ tìm lại những sách vở và bài giảng của các vị thiền sư nổi tiếng trên để chứng minh từng chữ một mà họ đã dám viết những điều họ chưa thực hành qua. Nhưng họ quá nổi tiếng nên không ai dám cãi lại, thậm chí nhiều nhà trí thức Tây Phương lại lặn lội đi học từng chút một nơi các vị ấy. Trong đó, những câu giáo lý mà trước đây tôi cho là hay nhất lại trở thành những câu thuộc lòng một cách quen thuộc trước cửa miệng, nhưng trên thực tế không ai có thể thực hiện được một phần ngàn. Thậm chí người ta quen đọc đến nỗi không còn bận tâm đến việc thực hành. Nếu ai có lòng nghĩ đến thực hành thì mới thấy rõ ràng là không bao giờ thực hành được. Ví dụ các câu nguyện lớn lao sau đây mà người tu sỹ đọc trước khi ăn cơm:

Nguyện đoạn nhất thiết ác
(nguyện xa lìa tất cả điều ác)

Nguyện tu nhất thiết thiện
(nguyện làm theo tất cả điều lành)

Thề độ nhất thiết chúng sanh
(thề hóa độ tất cả chúng sanh)

Ba lời nguyện trên trở thành ba lời sáo ngữ thuộc lòng mà không ai bận tâm suy nghĩ thế nào là từ bỏ tất cả việc ác để làm theo tất cả việc lành và độ hết thảy chúng sanh trong khi chính mình chưa độ được mình, chính mình chưa xác định được những tiêu chuẩn nào là ác, tiêu chuẩn nào là thiện một cách rốt ráo cho chính mình. Nhiều khi tôi thấy rằng những người nói dối tài ba nhất trên thế giới không phải là những người buôn gian bán lận mà chính là những người tu hành. Họ chẳng những nói dối với tha nhân mà còn nói dối với cả chính mình. Họ nói dối bằng những câu kinh lời kệ thuộc lòng quen thuộc chân thành tha thiết trơn tru! Tôi biết nói ra điều nầy rất đau lòng và khó chịu, nhưng đây là một sự thật bị che giấu nhiều quá. Xin cho phép tôi nói để sau nầy nhắm mắt trở về cố quận Quê Cha, tôi thoải mái hơn. Xin quý vị tu sỹ thật tha thứ cho tôi, vì lời nói của tôi làm buồn lòng quý vị. Dầu sao tôi cũng đã cam chịu sự trách móc hơn 20 năm qua.

© 2025 NGUOI TIN HUU - All Rights Reserved.NGUOITINHUU