Nguoi Tin Huu Logo
  • Trang Nhà
  • Trang Chính
    • CHIA SẺ
      • ĐỖ TRÂN DUY
      • Lm. HỒNG GIÁO
      • NGUYỄN HUỆ NHẬT
        • TỪ ÁO CÀSA ĐẾN THẬP TỰ GIÁ
        • AI CHẾT CHO AI? AI SỐNG CHO AI?
        • ĐỐI THOẠI VỚI MỘT PHẬN TỬ
      • NHIỀU TÁC GIẢ
    • DÒNG MÁU ANH HÙNG
    • ĐƯỜNG VÀO ĐẠO
    • HIỂU ĐỂ SỐNG ĐẠO
    • HÔN NHÂN CÔNG GIÁO
    • HỘ GIÁO
    • LỊCH SỬ GIÁO HỘI
    • MÁI ẤM GIA ĐÌNH
    • PHỤNG VỤ
      • Bài Giảng
      • Các Nghi Thức
    • SÁCH & TRUYỆN
  • Trang Hàng Ngày
    • GƯƠNG THÁNH NHÂN
    • SUY NIỆM HÀNG NGÀY
  • Trang Ngoài
    • VIETCATHOLIC
    • CẦU NGUYỆN BẰNG THÁNH VỊNH ĐÁP CA
    • HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VN
    • DÒNG CHÚA CỨU THẾ VN
    • DÒNG TÊN VN
    • LIÊN HIỆP BỀ TRÊN THƯỢNG CẤP VN
    • TRANG SỨ GIẢ TÌNH YÊU

Nguyễn Huệ Nhật - AI CHẾT CHO AI? AI SỐNG CHO AI?

GẶP CHÚA (tiếp theo)

Tiềm Thức Giai Cấp Nhân Loại & Sự Giải Thoát

Có những câu kinh được viết ra trong sách nghe rất hay, nhưng tôi không biết chắc chắn có phải đúng như thế hay không. Ví dụ trong quyển Lịch Sử Ðức Phật Thích Ca có một câu chuyện rất cảm động. Sách ghi lại rằng một hôm Ðức Thích Ca đến hóa độ cho một người gánh phân. Ông nầy là một người được sinh ra trong giai cấp hạ tiện, do đó khi thấy Ðức Thích ca đến, ông ta sợ sệt không dám gần người. Ðức thích Ca nói: “Trong con người không có giai cấp khác nhau khi nước mắt cùng mặn và dòng máu cùng đỏ”. Ðây là một câu nói rất cảm động. Nhưng trên thực tế, tôi được lớn lên và đi ra giữa cuộc đời, thấy rằng trong nước mắt cùng mặn và máu cùng đỏ, con người có nhiều giai cấp khác nhau rất khó đổi thay. Cụ thể nhất là trong khi Ðức Phật đang nói câu đó với người gánh phân, cả hai con người ấy đã khác xa nhau biền biệt. Chính sự khác nhau nầy đã làm cho người gánh phân sợ sệt khiến Ðức Phật phải nói câu ấy để an ủi người gánh phân. Trên lý thuyết thì nghe đúng lắm, nhưng thực tế vẫn còn giai cấp. Vì Phật là Phật, người gánh phân vẫn là người đang gánh phân ở giai cấp hạ tiện. Một kẻ sợ sệt vì biết thân phận thấp hèn của mình, một "Ðấng" tôn nghiêm đang giảng dạy vì ý thức rằng mình là "Ðấng" đã giác ngộ rồi. Cả hai người có ngồi chơi với nhau như hai người bạn tri giao đâu! Sau khi người gánh phân trở nên đệ tử của Ðức Phật, ông ta cũng ở cấp dưới người và thậm chí còn thấp hơn các vị đại đệ tử khác của Ðức Phật. Giai cấp nhân loại ngoài thế tục vốn đã nhiều, thế mà giai cấp nhân loại trong tôn giáo còn nhiều hơn, sâu sắc hơn. Chính hệ thống tổ chức giáo phẩm là hệ thống có nhiều giai cấp nhất. Nhưng có một điều đáng nói là Ðức Phật thương yêu người gánh phân và không phân biệt giai cấp thì đúng. Tuy nhiên điều đó mới chỉ đúng một chiều về phía Ðức Phật và trên lý lẽ mà thôi. Người bề trên nói câu đó được, nhưng kẻ bề dưới không dám nói đâu! Trong phật giáo, các giai cấp tín đồ thờ lạy những giai cấp tu sỹ trong khi các tu sỹ ấy còn sống trong xác phàm. Khi những tu sỹ ấy chết rồi, các giai cấp tín đồ tiếp tục thờ lạy ảnh tượng hoặc xác chết của những tu sỹ (thờ tổ). Như thế chẳng khác nào tôn giáo ấy chưởi lại câu kinh của vị giáo chủ sáng lập ra tôn giáo ấy. Chỉ khi nào con người cùng chung một dòng Huyết Cứu Rỗi mới thoát được tính cách giai cấp và dân tộc. Nghĩa là bao lâu căn bịnh giai cấp và dân tộc tính của chúng ta chưa được đóng đinh trên thập tự giá với Chúa Cứu Thế thì chúng ta không làm sao thoát khỏi cái ách giai cấp và sự phân biệt chủng tộc được, dù bên ngoài chúng ta có lịch sự với nhau đến mấy. Dĩ nhiên thái độ lịch sự bên ngoài vẫn tốt cho bề ngoài, nhưng chân lý là sự sống từ bên trong.

Có thể giai cấp không có trong nước mắt, cũng không có trong máu, nhưng chắc chắn có giai cấp trong tiềm thức nhân loại. Chúng ta hãy xem các tôn giáo thờ hình tượng là thấy ngay. Con người phàm phu còn thấp bé hơn cái tượng đất vô tri do họ làm ra. Vì tượng đất vô tri là “bậc giác ngộ” nên được ngồi cho con người sống phải đê đầu cúi lạy. Trong dòng Huyết Cứu Rỗi, con người được giải phóng ra khỏi giai cấp và chủng tộc, vì Ơn Cứu Rỗi đến với cả loài người chứ không phân biệt ai cả. Kinh Thánh ghi rằng: “Vã anh em thảy đều chịu phép Báp têm trong Ðấng Christ, đều mặc lấy Ðấng Christ vậy. Tại đây không còn chia ra người Giu-đa hoặc người Gờ-réc; không còn người tôi mọi hoặc người tự chủ, không còn đờn ông hoặc đờn bà; vì trong Ðức Chúa Jesus Christ, anh em thảy đều là một” (Ga-la-ti 3:27-28). Nhưng điều tôi muốn nói là ai ở trong Ðấng Christ thật sự, mới thấy được chân lý nầy cho chính mình. Nghĩa là “ai ở trong Ðấng Christ thì nấy là người được dựng nên mới” (I Cô-rin-tô 5:17). Con-người-mới được dựng nên trong Ðấng Christ là một con người không giai cấp, không có phân biệt mầu da, văn hóa, cho dù con người ấy vẫn còn nước mắt mặn và dòng máu đỏ. Ðây không phải là lý thuyết, không phải là sự cố gắng hòa đồng của con người mà là sức sống mới của Ðức Thánh Linh được Cha ban ra qua sự chết và sự sống phục sinh của Ðấng Christ. Ai muốn nhận được sự sống nầy thì cứ đến thập tự giá mà nhận. Không ai có thể tự giết chết bản chất con người xác thịt đầy giai cấp của mình để trở thành vô phân biệt giữa đồng loại được đâu. Nhưng ai ở trong Ðấng Christ thì người ấy được dựng nên mới và thoát ra khỏi tình trạng phân biệt giai cấp từng ngày một tùy theo lượng đức tin và sự sống mới mà người ấy nhận lấy cho chính mình từ nơi Thiên Chúa.

Hằng ngày tôi đọc Kinh Thánh. Kinh Thánh diễn tả về nguồn gốc vạn vật, con người và nguồn gốc tội lỗi trong con người. Tội lỗi truyền qua dòng dõi loài người và trở thành một phần bản tính “di truyền” của nhân loại. Bản tính tội lỗi ấy trở nên có quyền cai trị trong mỗi người. Vậy mỗi người phải nương vào bản thể năng quyền cao hơn để được giải phóng ra khỏi bản tính tội lỗi của mình; từ đó mới bắt đầu làm lành đúng nghĩa. Bao lâu con người còn mang bản tính tội lỗi trong mình thì họ có làm lành đến mấy đi nữa cũng chỉ là sự làm lành giả dối, hoặc sự làm lành tạm bợ, sẽ dẫn đến những hậu quả sai lầm khác về sau. Sau khi đã trải qua những kinh nghiệm sống đạo, những kinh nghiệm được Chúa tha tội và được chiến thắng sự cám dỗ, tôi bắt đầu thấy rằng câu nói “đạo nào cũng dạy con người làm điều lành cả” chỉ đúng với cửa miệng người có tôn giáo mà thôi. Những người Việt Nam vô đạo ưa nói câu nầy nhất để mau mau từ chối Ðạo! Còn trong Chúa Jesus Christ thì trước tiên con người phải đến với Người để ăn năn tội để được tha thứ, được chết về bản tính tội lỗi của mình, nhiên hậu điều lành của Chúa được sinh ra ngay khi người ấy được tái sinh (Rô-ma 6, 7, 8, Ga-la-ti đoạn 2, từ câu 15 đến hết đoạn 5, Cô-lô-se 2:8-23). Xem Kinh Thánh là rất tốt, nhưng xem Kinh Thánh với tư cách một con người đã được chết về bản tính ác của mình trong sự chết của Chúa Jesus Christ mới thấy KinhThánh là Lời Hằng Sống. Nếu chỉ xem Kinh Thánh như một người nghiên cứu tư tưởng, hoặc nghiên cứu tôn giáo, thì sự xem Kinh Thánh ấy chẳng khác gì một người đọc bức thư tình của một kẻ xa lạ để nghiên cứu tình yêu của những người xa lạ. Yêu là một hành động của trái tim, rất riêng tư và thực tế. Yêu là sự tiếp nhận và sự hiến dâng cùng một lúc với người mình yêu mến, thế nhưng có người không bao giờ tìm đối tượng để yêu, nhưng tìm thư tình của người khác để đọc và phô bày kiến thức về tình yêu. Chỉ có ai đã từng yêu mới cảm thông được những rắc rối và hạnh phúc của tình yêu. Ai yêu mới có kinh nghiệm của tình yêu. Ai cùng làm con trong Một Cha mới có kinh nghiệm tình yêu từ Một Cha.

Tôi đã bị mất hẳn những năm tháng tuổi thơ tình ái khi vừa mới lớn lên trong chùa, nên khi cởi áo ra đời tôi càng đi tìm tình yêu càng thất bại đắng cay, dù mình có đôi chút kiến thức về tình yêu. Mãi cho đến khi tôi được Chúa dạy sau những lần té ngã rồi lồm cồm đứng dậy. Tôi không tiếc những mất mát đó, nhưng muốn nói đến những kinh nghiệm sống đã đi qua từng giai đoạn tuổi đời mà mình không có được, đến khi tới tuổi trưởng thành mình thiếu hụt một số kinh nghiệm của tuổi thơ không thể nào quay lại được nữa. Bởi thế tôi luôn có cảm giác hụt hẫng trong con người mình. Dù khi ra sống ngoài đời, tôi thành thật trong tình yêu vợ chồng, nhưng tính chất thành thật của tôi rất là “tu sỹ” nên thiếu thực tế và khó thành công. Có khi tôi muốn thành thật hết sức mà không thể nào thành thật được, nhưng nếu bất chợt thấy ai dối như mình, tôi lại ghét họ. Mình hay tố cáo những thói xấu của người khác để che giấu những thói xấu của mình vốn giống y như thế (hoặc nhiều hơn!) Trước đây tôi chưa gặp được một người yêu thật nào cả mà chỉ gặp một số rủi ro tình ái. Tôi đã giải quyết hạnh phúc gia đình bằng ước vọng của người “quân tử” hay là “ông thầy tu” nên đã dẫn đến những trục trặc gia đình thật đáng hổ thẹn và khó nói. Tôi học làm người quân tử đối với kẻ bạc tình, nhưng chưa học làm người chồng đối với người vợ không chung thủy. Ông cựu thầy tu thứ thiệt cởi áo ra đời cưới vợ dễ thất bại hơn các ông thầy tu thứ thường. Vì thầy tu thứ thường dám có kinh nghiệm yêu đương khi còn ở trong đời sống nhà tu. Khi nào tình cảm của họ bị bại lộ gây tai tiếng, họ tìm cách đổi đi nơi khác; cùng lắm họ mới chấp nhận cởi áo. Bởi vì cởi áo để từ bỏ địa vị của một bậc “thế gian sư” là một điều ít có bậc “thế gian sư” nào dám làm. Người cựu thầy tu thứ thiệt biết mình không tu được thì lo cởi áo trước khi bị giây tơ trói chặt. Khi bước ra đời ông ta còn bỡ ngỡ vụng về. Khi có vợ thì ông cư xử với vợ bằng thói quen và “lòng thành” của ông tu sỹ chưa chết trong con người mình. Nếu gặp một bà vợ có tình yêu và biết bảo vệ hạnh phúc gia đình thì không sao cả, nhưng rủi ro gặp phải một bà vợ dám dùng bản thân và đời sống gia đình mình vào con đường an ninh chính trị thì thôi rồi!

Tiêu Chuẩn Của Tình Yêu

Sống giữa thế gian nầy chúng ta có nhiều thứ tình yêu một lúc và nhiều chất liệu tình cảm khác nhau trong mỗi con tim chúng ta. Tình cha mẹ, tình và kỷ niệm của tuổi thơ, tình bạn, tình quê, tình yêu đôi lứa, tình chồng nghĩa vợ, tình họ hàng, tình yêu đồng bào đồng loại, tình yêu thiên nhiên, chưa nói đến những đam mê say đắm đặc biệt khác... Nhưng càng văn minh, tình cảm của chúng ta càng bị thay đổi nhanh chóng bởi những ảnh hưởng khoa học kỹ thuật. Tình cảm nhân bản có khuynh hướng sai lạc ít nhiều nơi một số người thiếu khả năng thích nghi hoặc mất luôn nguồn cội tâm linh, nên thay vì yêu thương đồng loại, yêu thiên nhiên, người ta đem tình cảm của mình dồn cho chó mèo hay các thứ súc vật khác. Tệ hơn nữa là người ta đam mê những sản phẩm vật chất đến mức độ đáng lo ngại. Tại Ðức tôi đã gặp những nhà giầu bất hạnh. Họ quá giầu về vật chất, nhưng quá nghèo về tâm linh và nghèo cả tình người. Do đó họ đầu tư tiền bạc vào những nghiện ngập tình cảm đối với súc vật. Họ bỏ những số tiền kếch sù để chăm sóc nhiều con vật vô dụng chứa đầy nhà. Họ tránh xa người nghèo và kỳ thị người dị tộc, nhưng những con vật hoang dã đáng được tự do trong thiên nhiên thì họ mua về giam trong những cái chuồng đắt giá để nuông chiều, để hầu hạ, để phục vụ và vô tình làm cho các con vật ấy mất cả bản tính thiên nhiên của chúng. Dĩ nhiên tôi rất ủng hộ những người yêu thiên nhiên và sẵn sàng bảo vệ động vật hoang dã. Nhưng tôi không thể ủng hộ những người bảo vệ động vật hoang dã bằng cách biến hoang dã thành công trình tiêu khiển bịnh hoạn và ích kỷ trong các chuồng sắt chật hẹp. Nếu xã hội không được đầu tư vào các mục đích văn hóa, giáo dục đạo đức nhân bản, nhất là khi người ta không có tình yêu trong Ðấng Tạo Hóa để làm tiêu chuẩn và nguồn cội cho các thứ tình yêu, tình cảm khác, thì nguy cơ của sự hủy diệt (còn tệ hơn cả sự khủng bố) sẽ xẩy ra mà không ai lường trước nổi. Kinh Thánh rao bảo điều nầy nhiều nhất, trước nhất và liên tục nhất.

Ðấng Tạo Hoá dựng nên chúng ta và ban cho chúng ta ảnh tượng của Người để chúng ta trở thành một loài sinh linh trong đó có nhiều thứ tình yêu và tình cảm vô cùng phong phú. Tất cả những thứ tình yêu và tình cảm trong chúng ta cần được thể hiện đúng cách và đúng nghĩa. Nếu chúng ta bình tĩnh, khiêm tốn chịu học tập với nhau để biết thương yêu và đón nhận tình yêu thương đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng, đúng cách, đúng nghĩa với sự chân tình nhân bản, thì chắc chắn chúng ta không làm hỏng phẩm chất cao quý của tình yêu như thực tế đã xẩy ra.

Tùy vào mỗi nền văn hóa, mỗi thời đại mà con người có những cách thể hiện tình thương yêu khác nhau đôi chút. Nhưng dù đang ở trong bất cứ một môi trường văn minh văn hóa nào, con người cũng cần nhận biết tình yêu của Ðấng Tạo Hóa trước hết, vì đây là tình yêu tối quan trọng để làm động lực nhiếp dẫn tất cả những tình yêu khác vào chất liệu của tình yêu Thánh một cách hài hòa và mới mẻ luôn. Nếu không có tình yêu thánh của Ðấng Tạo Hóa, làm sao con người có thể yêu thương kẻ thù nghịch và cầu nguyện cho họ? Nếu không có tình yêu Ðấng Tạo Hóa, làm sao chúng ta chịu đựng nổi những kẻ trái khuấy gây hấn và lợi dụng những thành quả tốt đẹp của chúng ta để hủy hoại chúng ta? Nếu không có tình yêu Ðấng Tạo Hóa, chúng ta không thể nào có một tấm gương đúng tiêu chuẩn để soi mức độ bội nghịch, phi nghĩa, tráo trở trong mỗi cá nhân mình với Người và với đồng loại.

Tình yêu Thiên Chúa là tiêu chuẩn, là mẫu mực, là chất liệu cơ bản để các tình yêu khác được thể hiện đúng nghĩa. Khi có tình yêu Thiên Chúa, những tình yêu khác cũng trở nên phong phú và hiệu năng hơn. Tình Yêu Ðấng Tạo Hóa hiện diện trong mọi hình thái vật chất giữa thiên nhiên động vật và con người để vận hành sự sống. Nhưng tụ lại một điểm cao hơn hết của tình yêu thương ấy là sự hiện thân trong Con Một của Người để ban cho tâm linh loài người, (vì tâm linh của họ là vĩnh cửu, là nguồn cội của hạnh phúc siêu việt) mà con người đã đánh mất trong nguyên tội. Tin Lành Giăng 3:13-16 nói lên tình yêu của Ðấng Tạo Hóa khi Chúa Jesus tiếp tục ban Lời, vì chính Người là Lời. “Chưa hề có ai lên trời, trừ ra Ðấng từ trời xuống, ấy là Con Người vốn ở trên trời. Xưa Môi-se treo con rắn lên nơi đồng vắng thể nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên dường ấy, hầu cho hễ ai tin đến Người thì được sự sống đời đời. Vì Ðức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Người, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời”. Bởi thế Chúa Jesus Christ cũng đã phán: “Ai yêu cha mẹ hơn ta thì không đáng cho ta; ai yêu con trai hay là con gái hơn ta thì cũng không đáng cho ta” (Ma-thi-ơ 10:37)

Lúc đầu tôi tưởng Chúa dạy quá đáng, hoặc Chúa muốn nhấn mạnh một ý nghĩa gì đó mà thôi, nhưng sau nầy kinh nghiệm được tình yêu của Chúa Cứu Thế rồi, tôi mới nghiệm thấy rằng tình yêu nào trong con người chúng ta cũng đều có những ích kỷ, sai lầm và có tính phù du cả. Lắm khi cha mẹ giận con đến nỗi từ bỏ con. Hoặc người mẹ có thể vứt con khi gặp hoàn cảnh khó khăn quá đáng. Hoặc đứa con giận cha mẹ đến nỗi trở thành bất hiếu lạc loài. Hoặc vợ chồng phản trắc nhau. Nhưng nếu những người đó đã có tình yêu thật trong Chúa, thì dù gặp hoàn cảnh gì đi nữa, họ cũng giữ được hiếu thảo và chấp nhận nhau. Nếu rủi ro gặp sự trục trặc giữa tình nghĩa vợ chồng, người có Chúa sẽ hàn gắn không mệt mỏi. Bởi tình yêu của Chúa trong họ, sự tha thứ nhau ở trong họ không bao giờ hao mòn.

Tình yêu Thiên Chúa không chỉ là tiêu chuẩn để yêu mà là chất liệu thật để sống. Làm sao con người nhận được tình yêu Thiên Chúa khi còn chối từ Người? Làm sao chúng ta có thể yêu nhau đúng nghĩa như Chúa muốn khi chúng ta không có tình yêu Thiên Chúa? Yêu Chúa là yêu cuộc sống Thiên Ðường vĩnh cửu với Chúa. Khi đặt tình yêu của Chúa lên vị trí cao nhất trong trái tim của chúng ta, chúng ta cũng sẽ yêu cha mẹ vợ con theo tiêu chuẩn của tình yêu thiên thượng trong Người chứ không phải là tiêu chuẩn của tình yêu hạ giới trong chúng ta nữa. Khi tôi yêu cha mẹ vợ con tôi hơn là yêu Chúa, rất có thể một ngày nào đó tôi sẽ phản bội họ vì lý do nầy hay lý do khác. Nhưng khi tôi yêu Chúa hơn yêu cha mẹ, vợ con tôi; chắc chắn tôi cũng vì Chúa mà chung thủy và tận tụy với họ hơn nữa; chưa nói là chính Chúa ban thêm sức lực cho tôi để tôi yêu cha mẹ vợ con đúng với chất liệu của tình yêu trong Người. Chính vì thế mà người có Chúa tìm người có Chúa để lập gia đình. Vì khi chúng ta đặt tình yêu Thiên Chúa lên cao nhất, tất cả cơ sở của chúng ta giữa thế gian nầy sẽ là bằng cớ của thiên đường vĩnh cửu. Nhưng khi chúng ta đặt tình yêu Chúa thấp hơn các tình yêu hạ giới, cuộc sống hạ giới của chúng ta sẽ điều khiển chúng ta vào tình trạng yêu thế gian và làm trọn những điều ưa muốn của xác thịt như I Giăng 2:15-17 cảnh báo chúng ta.

Giáo lý đạo Phật dạy rất nhiều về hai chữ Từ Bi, nhưng Chúa Jesus dạy ít. Chúa Jesus dạy ít vì Người biết con người vốn ích kỷ và khó yêu nhau. Càng học nhiều lý thuyết, người ta càng biết cách lừa dối tinh vi hơn; do đó Chúa bảo phải nhận tình yêu của Người trước khi có thể yêu nhau như Người đã nói với các môn đồ mà Thánh Giăng ghi lại trong đoạn 13:34-35, và đoạn 15:12-17. Người dạy rất ngắn để cho môn đệ của Người dễ thực hành và ai sống theo thì làm được. Nghĩa là ai tiếp nhận tình yêu của Người cho mình trước đã, nhiên hậu mới có thể yêu người khác một cách đích thực. Ðó là lý do tại sao Chúa dạy ít mà chất lượng chân lý thì nhiều. Chúa dạy ít, nhưng loài người học được nhiều hơn từ hàng ngàn pho sách của những vĩ nhân mà không ai thực hành được nên cứ vang bóng suốt những ngàn năm le lói. Càng không thực hành được, người ta càng bày ra nhiều nghi thức tôn giáo, triết lý rườm rà để lừa mị và che đậy sự thất bại đạo lý bên trong. Sự thờ lạy hình tượng bên ngoài cũng là một bằng chứng đã mất ảnh tượng Thiên Chúa bên trong con người. Mỗi một ngày tương giao với Chúa, tôi nhận được tình yêu của Người để ghi lại một cách thong dong sung sướng, để ca hát, để tôn vinh, để cảm tạ nồng nàn. Thậm chí có những lúc tôi không còn dùng tới ngôn ngữ mẹ đẻ để thưa với Chúa nữa. Ðây là một trong những sự thật tuyệt vời của Ðức Tin để có những ngày y như những ngày trời trên đất mà Chúa đã hứa! (Phục truyền 11:21) Khi mắt và lòng chúng ta chú vào mầu hoa huệ ngoài trũng thì tâm linh chúng ta nhận biết Người muốn nói gì ngay, chưa nói chi đến linh hồn chúng ta tôn vinh Người như Thiên Thiên 23, Thi Tiên 90, Thi Thiên 103... và nhiều Thi Thiên khác nữa. Ðời sống nội tâm của một người có hồng ân cứu rỗi khác với đời sống nội tâm của một người thế gian.

Nay tôi biết tình yêu của Người không phải là tình cảm. Tình cảm chỉ là một lớp mỏng trên bề mặt để khởi đầu tiếp giáp với tình yêu mà thôi. Cũng có khi tình cảm là lớp chai sạn thương đau của con tim thương tổn bị che giấu lâu ngày. Nếu không được chữa lành, lớp mỏng nầy sẽ thành một lớp mầu che đậy hận thù và tội ác để hận thù và tội ác núp lén, nguỵ trang một cách có hệ thống lắc léo hơn, phức tạp hơn như tình cảm dân tộc cực đoan, tình cảm văn hóa cực đoan, tình cảm tôn giáo cực đoan, tình cảm cá nhân hẹp hòi và quá khích... Tình cảm hay bám theo thể diện, tiếng thơm bề ngoài của cá nhân và bè phái. Nhưng tình yêu thì bỏ quên bản ngã bề trong. Tình cảm ưa kịch tính, kích động rườm rà để lấy tiếng nhất thời bên ngoài. Nhưng tình yêu thể hiện chân lý sâu xa và yên tịnh bề trong.

Người có Chúa thường được những giây phút nhìn ngắm thiên nhiên bao la và hít thở không khí mênh mông vào trong từng giọt máu để nhận biết tình yêu Thiên Chúa trong thiên nhiên. Những giây phút nầy rất sâu lắng và hạnh phúc mà Thiền trong Phật Giáo từng diễn tả một cách khó khăn vất vả chỉ vì Thiền không chấp nhận có Ðấng Tạo Hóa dựng nên vạn vật. Giáo lý đạo Phật xem tình cảm gia đình, tình cha mẹ, vợ chồng, tình bạn bè, quê hương đều là ái nghiệp hết. Phật Giáo cho rằng yêu là ái nghiệp, một nguyên nhân của đau khổ (Ái biệt ly khổ), nhưng lắm người nhân danh đạo Phật mà lại mang tình cảm dân tộc cực đoan và quá khích. Ðiều nầy là đúng với tình cảm và tình yêu ích kỷ của con người trần tục chưa được ơn Cứu Rỗi, chưa kinh nghiệm sức sống phục sinh của Thiên Chúa trong Ðức Jesus Christ. Kinh Thánh chép rằng Thiên Chúa là Tình Yêu (I Giăng 4:16).

Chúng ta yêu nhau bằng tình yêu của Chúa trong chúng ta thì chắc chắn nhất. Tình yêu mà Thánh Phao lô nói trong 1. Corinto 13 là tình yêu Thiên Chúa, tình yêu hằng hữu. Ðây là tình yêu mà loài người cần có thêm từng ngày một. Ðến khi trời đất không còn nữa, tình yêu nầy vẫn còn. Chúa yêu chúng ta đến nỗi Người từ bỏ thiên đường xuống thế làm người như chúng ta để chết thay cho tội lỗi của chúng ta. Người cũng sống lại để cho chúng ta có sự sống phục sinh. Còn những người ngoài Chúa thì cũng yêu, nhưng đem cái chết của mình ra làm phương tiện gây thêm thù hận thương đau cho kẻ khác và tin rằng hành động tự sát cảm tử như thế là anh hùng, là đạo lý! “Anh hùng và đạo lý” vì đem cái chết đơn lẽ của mình ra để giết hàng chục ngàn người khác một lúc trong khi họ không thù không oán gì với mình cả! Tại sao tôn giáo có thể có những giáo lý gây ảnh hưởng vào lý lẽ phi nhân đến thế? Bởi vậy, nếu không theo Hồi Giáo cực đoan, hoặc không theo các tôn giáo cực đoan khác, nhưng cứ tiếp tục chối từ tình yêu Thiên Chúa, con người chúng ta cũng chỉ biết lẩm cẩm trong tình yêu trần thế hạn hẹp và phù du mà thôi. Tôn giáo khác với Ơn Cứu Rỗi là như vậy, mặc dù tôn giáo vẫn có đức tin, nhưng đức tin tôn giáo không đặt vào Ðấng đáng tin mà đặt vào cơ cấu, tổ chức và lý thuyết theo ý tưởng và đạo lý con người. Tất cả những gì cao đẹp nhất phát xuất từ con người vẫn là hư không, ảo mộng. Trong tình yêu thiên thượng, mọi phù du biến tan.

© 2025 NGUOI TIN HUU - All Rights Reserved.NGUOITINHUU