Trong hai chương trước đây, chúng ta đã thu thập những dữ kiện của Thánh Kinh và Thánh Truyền về Thánh Giuse. Trong chương này, chúng ta sẽ xếp đặt những dữ kiện đó theo hệ thống, đồng thời cũng cố gắng tìm hiểu những lý lẽ giải thích đạo lý đức tin (intellectus fidei).
Như đã nói ở Nhập Đề, công đồng Vaticanô II đã thay đổi đường hướng trình bày thần học về Đức Maria. Thay vì dừng lại ở những suy diễn về các đặc ân cao trọng mà Thiên Chúa đã ban cho người, công đồng đã muốn nhìn ngắm người trong tương quan với Đức Giêsu và Hội Thánh. Dựa theo chiều hướng đó, trong thông điệp Redemptoris Mater, đức Gioan Phaolô II đã phân tích “cuộc lữ hành đức tin” của Đức Maria: tuy được uỷ thác vai trò độc nhất vô nhị trong chương trình của Thiên Chúa, Mẹ cũng đã trải qua nhiều thử thách gian truân giống như chúng ta. Vì thế người rất gần gũi với chúng ta; hay cũng có thể nói ngược lại: chúng ta thấy mình gần gũi với người như một kẻ đồng hành trong đức tin.
Chúng ta có thể nhận xét cách tương tự về đường hướng suy tư thần học của tông huấn Redemptoris Custos. Thay vì suy diễn các đặc ân cao trọng của Thánh Giuse (vô nhiễm nguyên tội? hồn xác lên trời?), đức Gioan Phaolô II nhìn Thánh Giuse trong vai trò phục vụ chương trình cứu độ, nghĩa là trong tương quan với Chúa Giêsu và với Hội Thánh. Theo chiều hướng ấy, chúng tôi sẽ lần lượt bàn về Thánh Giuse trong cuộc đời của Đức Giêsu (mục 1), trong Hội Thánh (mục 2), trong phụng vụ (mục 3).
* Lưu ý: Trong chương này, tông huấn Redemptoris Custos sẽ được viết tắt là RC.
Trong những danh hiệu mà truyền thống đã dành cho Thánh Giuse, đức Gioan Phaolô II đã chọn hai diễn ngữ xem ra thích hợp nhất để diễn tả vai trò của người trong chương trình của Thiên Chúa: Redemptoris custos (kẻ gìn giữ Chúa Cứu thế) và Minister salutis (người phục vụ [thừa tác] ơn cứu độ). Vai trò này được thể hiện qua chức năng là “cha của Đức Giêsu”, và người trở nên cha của Đức Giêsu qua cuộc hôn nhân với Đức Trinh nữ Maria, thân mẫu Đấng Cứu thế.
“Cha của Đức Giêsu” -- “Chồng của Đức Maria”: đó là hai chủ đề căn bản của những suy tư thần học về Thánh Giuse từ thời các giáo phụ. Khác một điều là trước đây, người ta dừng lại ở chỗ tranh cãi về bản chất của “phụ tính” (cha theo nghĩa nào?) và “hôn nhân” (đâu là yếu tính của hôn nhân?), tông huấn RC muốn đào sâu hơn khía cạnh tương quan, nghĩa là trong mối liên hệ với Chúa Giêsu và với Đức Maria. Nhờ việc suy niệm các đoạn văn Thánh Kinh, chúng ta có thể khám phá ra khuôn mặt mới của “tình cha” và “hôn nhân” trong viễn ảnh của Nước Trời.
Theo thứ tự thời gian và luận lý, lẽ ra cần phải bàn đến Thánh Giuse là “chồng của Đức Maria” trước khi nói đến “cha của Đức Giêsu” (Người là cha bởi vì là chồng của mẹ), nhưng xét theo thứ tự thần học, thì mối tương quan với Chúa Giêsu cần được đặt lên hàng đầu. Sở dĩ Thánh Giuse được mời gọi hãy lấy Đức Maria làm vợ là bởi vì ông được trao nhiệm vụ phục vụ cuộc Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Vai trò làm cha (“Kẻ giữ gìn Đấng Cứu chuộc”) nằm trong chương trình “phục vụ ơn cứu độ”. Cuộc phục vụ này bao hàm nhiều lãnh vực, đứng đầu là “chứng nhân cho mầu nhiệm Nhập Thể”.
Nhiều người tỏ ra thất vọng vì Tân Ước không cung cấp nhiều dữ kiện về cuộc đời Thánh Giuse. Nói cho đúng, Tân Ước cũng không cung cấp dữ kiện dồi dào về cuộc đời của Đức Maria, và ngay cả về tiểu sử của Đức Giêsu nữa. Trọng tâm của Tân Ước dồn vào hai điểm chính: thân thế và sự nghiệp của Đức Giêsu Kitô. Nói cách khác, Tân Ước muốn trả lời cho hai câu hỏi: Đức Giêsu là ai? Đức Giêsu đã làm gì cho nhân loại? Hai câu hỏi này tương đương phần nào với mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Vượt Qua của Người.
Đức Giêsu là ai? Các nhà chú giải Kinh Thánh nhận thấy một sự tiến triển trong cộng đoàn các môn đệ tiên khởi trong tâm thức về thân thế của Đức Giêsu, từ chỗ quan niệm Đức Giêsu như là đấng Mêsia được nâng lên làm Con Thiên Chúa do sự phục sinh (xc. Rm 1,4) đến chỗ tin rằng Người là Lời hằng hữu của Thiên Chúa xuống thế làm người (Ga 1,1.14). Dù sao đi nữa, trong hai trình thuật truyền tin của Matthêu và Luca, thân thế của Đức Giêsu được mặc khải cho Thánh Giuse và Đức Maria: họ là hai chứng nhân đầu tiên về đức tin của Hội Thánh. Thực vậy trong cuộc truyền tin cho Đức Maria, thiên sứ cho biết rằng Con Trẻ sẽ là: “Con Đấng Tối Cao và Con Thiên Chúa”. Còn trong cuộc truyền tin cho Thánh Giuse, căn cước của người con sinh bởi Đức Maria là “Giêsu và Em-ma-nu-en”.
Thánh Giuse không những nhận được mặc khải của thiên sứ về thân thế của Đức Giêsu, nhưng còn được mời gọi hợp tác để chương trình của Thiên Chúa có thể thành tựu. Thực vậy, theo Tin Mừng Matthêu, ông Giuse được lệnh đưa bà Maria về làm vợ, ngõ hầu người con sinh ra bởi bà Maria được thừa hưởng dòng dõi vua Đavit, và như vậy là thực hiện những lời Chúa hứa liên quan tới đấng Mêsia. Ông Giuse cũng được lệnh đặt tên cho hài nhi sinh ra bởi bà Maria là Giêsu, nhờ thế ông công bố chức phận của Người là “Thiên Chúa Cứu chữa”, và cũng nhờ vậy mà ông giúp cho chương trình của Thiên Chúa Nhập Thể được hoàn tất, bởi vì người con sinh ra sẽ là Em-ma-nu-en (Thiên Chúa ở cùng chúng ta).
Cũng theo Tin Mừng Matthêu (ở cuối chương hai), ông Giuse còn tạo điều kiện để Đức Giêsu trở thành người Nazareth. Nazareth không những ám chỉ nguyên quán của Đức Giêsu mà còn nói đến thân phận của Người nữa. Tuy Đức Giêsu là đấng Mêsia, là con vua Đavit, nhưng Người không thiết lập vương triều Thiên Chúa theo thể chế cai trị trần gian: Người là đấng Mêsia khiêm tốn, chịu đau khổ. Điều này đã gắn với danh hiệu “Nazareth”, một làng quê bị khinh miệt.
Tóm lại, Thánh Giuse làm chứng nhân cho Đức Giêsu vừa là đấng Mêsia thuộc hoàng tộc, vừa là Mêsia tôi tớ khiêm hạ của Thiên Chúa, vừa là Em-ma-nu-en.
Thánh Giuse thực thi vai trò chứng nhân bằng sự dấn thân của mình: bằng việc lấy Đức Maria làm vợ, bằng việc lên đường về Bêlem, bằng việc tuân hành luật truyền về sự cắt bì và dâng hiến con đầu lòng, khi lánh nạn qua Ai-cập, bằng việc từ Ai-cập trở về Nazareth; tắt một lời, bằng cách đảm nhận làm “cha của Đức Giêsu”.
Khi phân tích các bản văn Tân Ước, chúng ta nhận thấy rằng Matthêu không gọi Thánh Giuse là “cha của Đức Giêsu” như là Luca. Tuy nhiên, ta có thể suy đoán dễ dàng từ lời thiên sứ truyền tin cho ông, bởi vì ông là chồng của bà Maria, và bà này sinh ra Đức Giêsu. Hơn nữa, không phải Thánh Giuse chỉ mang danh nghĩa là “cha” mà còn thi hành những bổn phận của người cha theo luật lệ đương thời: đặt tên cho con trẻ (Matthêu), đăng ký vào sổ kiểm tra, cắt bì, dâng con đầu lòng (Luca).
1/ Thánh Giuse là cha theo nghĩa nào?
a) Trong lịch sử thần học, chức vụ làm cha của Thánh Giuse đã được đặt nhiều tên khác nhau:
b) Những từ ngữ trên đây tìm cách xác định tình cha của Thánh Giuse bằng cách quy chiếu về các khuôn mẫu đã có trong xã hội. Phương pháp này đã bị chỉ trích bởi vì không đếm xỉa đến tính cách độc đáo của mối tương quan giữa Thánh Giuse với Chúa Giêsu. Tính cách độc đáo (độc nhất vô nhị) nằm ở chỗ dung hoà hai điểm trái ngược: một đàng, Thánh Giuse không phải là cha của Chúa Giêsu về thể lý; đàng khác, ông là cha “thật” của Chúa Giêsu. Vì thế có người đã tạo ra những diễn ngữ mới, chẳng hạn như:
c) Thực ra, sự khó khăn trong việc diễn tả tình cha của Thánh Giuse không phải chỉ vì Đức Giêsu sinh ra không bởi sự giao hợp vợ chồng (vì thế không phải là “con theo nghĩa thường tình), nhưng tại vì “cha thật” của Đức Giêsu là Chúa Cha, như Người đã nhắc khéo hai ông bà khi tìm gặp lại trong đền thờ (Lc 2,49). Nói cho cùng, sự khó khăn này không chỉ xảy ra cho người cha (ông Giuse) mà cả cho bà mẹ (Đức Maria nữa). Bà Maria có lẽ đã đau nhói đến tim khi nghe Đức Giêsu tuyên bố: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” (xc. Mc 3,34-35); nhưng sau khi định thần, bà có thể an tâm: “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi”. Chúng ta có thể áp dụng phần nào cho Thánh Giuse: ông đáng gọi là “cha của Đức Giêsu” trong tầm mức thi hành ý muốn của Thiên Chúa. Thiết tưởng vinh dự của ông Giuse nằm ở chỗ đó: ông đã chấp nhận làm cha của Đức Giêsu do ý muốn của Thiên Chúa, và đồng thời ông giữ một vai trò như là đại diện của Thiên Chúa đối với Đức Giêsu.
2/ Ý nghĩa tình cha của Thánh Giuse
Thánh Giuse thực sự là cha của Đức Giêsu ở dưới thế: ông đã giúp cho công cuộc Nhập Thể của Ngôi Lời được trở nên trung thực hơn (RC 21). Thực vậy, Đức Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật. Đức Giêsu tỏ ra là con người thật khi sinh ra từ một gia đình con người, và lớn lên trong một gia đình con người. Thánh Giuse đã giúp cho Đức Giêsu “nên người”.
Ngoài những hành vi luật pháp đã nói trên đây, chúng ta có thể xét đến mối tình phụ tử giữa Thánh Giuse và Đức Giêsu dựa theo tương quan tình cảm nhìn từ cả đôi bên (xc. RC 8)
a) Tình cha của Thánh Giuse. Khi trả lời với Đức Maria trong đền thờ Giêrusalem, Chúa Giêsu nói rằng Người lo công chuyện của “Cha”, nghĩa là Chúa Cha. Tuy nhiên, điều này không đương nhiên phủ nhận vai trò làm cha của Thánh Giuse. Một cách tương tự như vậy, khi Chúa Giêsu dạy các môn đệ rằng “anh em đừng gọi ai dưới đất là cha vì chỉ có một Cha là Cha trên trời” (Mt 23,8), Người không muốn tiêu huỷ tất cả mọi tương quan cha con trong xã hội. Điều mà Chúa Giêsu muốn nêu bật là một thứ tự trong liên hệ phụ tử: đứng hàng đầu là Thiên Chúa Cha, nguồn gốc của mọi thứ phụ hệ (xc. Ep 3,14); các tương quan phụ tử trên đời này cần phải quy chiếu về đó. Trong bối cảnh này, vai trò làm cha của Thánh Giuse không xung khắc với Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu; trái lại, có thể khẳng định rằng Thánh Giuse trở thành “hình ảnh” của Chúa Cha dưới đất, qua việc yêu mến, chăm nom, dưỡng dục. Thánh Giuse đã yêu mến Chúa Giêsu với những tâm tình của một người cha đối với con mình: tâm tình này chắc hẳn đã được thanh luyện và nâng cao vì được chia sẻ vào chính cội nguồn của tình phụ tử. Trên thực tế, Thánh Giuse đã đem hết tâm tình để phục vụ Chúa Giêsu, qua những công tác cụ thể vừa liệt kê trên đây trong thời kỳ sinh hạ, và được tiếp nối với những công tác dưỡng dục nhân bản trong suốt thời ẩn dật.
b) Tình con của Chúa Giêsu. Tuy Thánh Luca nêu bật rằng “Cha” của Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng liền đó, thánh sử viết tiếp rằng Đức Giêsu theo Đức Mẹ và ông Giuse trở về Nazareth, và “người đã tùng phục họ” (Lc 2,50-51). Điều này cho phép suy đoán rằng Chúa Giêsu đã dành cho hai đấng tất cả những tâm tình thảo hiếu của một người con. Người đã hấp thụ nền giáo dục của song thân, đã “tăng trưởng về khôn ngoan và ân nghĩa” (Lc 2,52), đã hấp thụ cả danh phận nghề nghiệp của cha mình: Người được nhìn nhận như là “con bác thợ mộc” (Mt 13,55), và thậm chí như là “thợ mộc” (Mc 6,3).
Sau khi phân tích mối liên hệ phụ tử dưới khía cạnh tâm lý, tông huấn RC còn muốn đi xa hơn nữa, khi gán cho những tâm tình của Thánh Giuse đối với Chúa Giêsu một giá trị hy sinh cứu chuộc, qua những lời của đức Phaolô VI: “Người đã biến cuộc đời mình thành một sự phục vụ, một sự hy sinh cho mầu nhiệm Nhập Thể và cho sứ vụ cứu độ gắn kèm theo đó; đã sử dụng uy quyền pháp lý đối với thánh gia để trao ban bản thân, cuộc sống và công tác; đã biến đổi ơn gọi tự nhiên trong tình yêu gia đình thành nên một hiến tế siêu nhiên chính bản thân mình, trái tim và tất cả sức lực của mình cho tình yêu phục vụ Đấng Cứu Thế đã sinh ra trong nhà mình”.
3/ Tái khám phá tình cha ở thời đại hôm nay
Việc suy tư về mối liên hệ phụ tử giữa Thánh Giuse và Chúa Giêsu không chỉ giới hạn vào phạm vi thần học, nhưng còn làm sáng tỏ vai trò của người cha dưới khía cạnh nhân bản: bản tính của tình cha là gì? vai trò của người cha như thế nào?
Theo quan niệm cổ truyền, người cha là kẻ truyền lại dòng họ và gia tài cho con cái: đó là “họ nội” (khác với họ ngoại, về đàng mẹ). Mối liên hệ xem ra chặt chẽ: “cha nào con nấy”.
Tuy nhiên, thực tế ra như chứng minh ngược lại: cha thuộc về “họ ngoại” chứ không thuộc “họ nội”! Người con được cưu mang chín tháng ở trong bụng mẹ; bà mẹ biết mình đang mang một đứa con trong lòng, đang khi lắm lần người cha không biết rằng mình đã có đứa con! Sau khi đứa con ra đời, nó vẫn thấy gần gũi với bà mẹ hơn là với người cha: ông thường vắng nhà, mải miết với công ăn việc làm, khoán trắng hết mọi chuyện gia đình cho “nội tướng” là bà mẹ. Người cha sống “ngoài gia đình”.
Dưới sự phân tích của ông Sigmund Freud, chức năng của người cha lại càng bạc bẽo hơn nữa. Người cha tượng trưng cho pháp luật, kiềm chế những ước muốn dục vọng của con cái. Vì thế sự trưởng thành của con cái đòi hỏi phải “giết cha”: con người cần được giải thoát khỏi những ràng buộc thì mới có thể phát triển tự do được. Tiếc rằng thực tế không xảy ra như vậy: thiếu cha, đứa con không cảm thấy thoải mái hơn, nhưng bơ vơ lạc lõng.
Trong bối cảnh xã hội này, nhiều cuộc học hỏi đã được tổ chức để tái khám phá chức năng của người cha. Chức vụ của người cha không chỉ giới hạn vào chuyện sinh con (bởi vì như thế chẳng khác thú vật cho lắm). Người cha có vai trò quan trọng hơn nữa trong việc giáo dục con cái mình: truyền thụ gia sản tinh thần (những kinh nghiệm bản thân, nghề nghiệp, dòng họ); tập cho đứa con tiếp xúc với xã hội; chấp nhận những cam go của thực tại, khác với những ước muốn theo cảm xúc. Nhất là người con cần cảm nhận tình yêu của cha, tuy rằng cách biểu lộ tình yêu này khác với tình yêu của người mẹ. Dù vậy, người con cần cảm nghiệm sự gần gũi của người cha, một người cha quan tâm đến nó, chứ không bù đầu vào chuyện công ăn việc làm.
Như đã nói trên đây, đối với Chúa Giêsu, Thánh Giuse đã thực hiện vai trò làm cha như là đại diện cho Chúa Cha. Tâm lý học cho biết rằng nhiều lần chúng ta hình dung Thiên Chúa là cha dựa theo kinh nghiệm mà chúng ta có về thân sinh của mình. Như vậy, tình cha không chỉ là một thực tại tâm lý xã hội, nhưng còn mang chiều kích siêu nhiên nữa.
Nhận xét về tình cha trong liên hệ gia đình cũng có thể áp dụng cho những “cha tinh thần”. Truyền thống nhiều tôn giáo đã nhìn nhận vai trò của các “sư phụ” (thầy như cha). Truyền thống Kitô giáo cũng đã biết đến mối dây phụ tử tinh thần qua nơi các vị mục tử (sinh những người con cho Nước Trời, nhờ lời giảng và các bí tích), các vị hướng dẫn tâm linh (abbas, kể từ các ẩn sĩ Ai-cập thế kỷ IV).