Người biên tập hiển nhiên xác định tiêu điểm của dụ ngôn này: những người tự coi mình là công chính và khinh miệt người khác. Trong câu chuyện của Luca, không ai khác là người Pharisiêu và luật sĩ.
Nếu Kitô Hữu chỉ biết đến người Pharisiêu qua Tân Ước, họ không được thông tin đủ và có ấn tượng sai lầm. Hiểu biết Tân Ước tốt hơn đưa đến một tường trình hay dẫn giải công bằng về họ. Người Pharisiêu chỉ là một trong các bè phái thời của Đức Giêsu. Họ thành hình một “đoàn nhóm” (haburah tiếng Hebrew) mà thành viên có những tuân giữ đặc biệt về sự cầu nguyện, ăn chay, bố thí, và đóng góp.
Trong dụ ngôn này, lời cầu nguyện của người Pharisiêu thì hướng về chính mình, cũng giống như bài Ngợi Khen (Magnificat) của Đức Maria (Luca 1:46-56) và bài ca của cụ Simêon (2:29-31). Tuy nhiên, không giống như những lời cầu nguyện đó, lời cầu của người Pharisiêu này, không thể nhầm lẫn là có góc cạnh trịch thượng (“không như người khác… nhất là tên thu thuế kia,” c. 10) được thốt lên để diễn tả sự đạo đức của ông ta. Lời từ chối của ông (“không tham lam, không bất chính, không ngoại tình) thì bị chối bỏ trong các câu chuyện của Luca. Đức Giêsu kết án những người Pharisiêu là đầy tham lam (11:39), ham thích tiền bạc (16:14), và người ngoại tình (16:18) – được ám chỉ bởi hai câu gần nhau.
Ăn Chay. Tín hữu Kitô (Công Vụ 13:2-3; 14:23) và Do Thái đều ăn chay. Truyền thống Do Thái thì lưu tâm hơn đến những ngày ăn chay chung (tỉ như, ngày đền tội, xem Lêvi 16:29-31). Người Pharisiêu này khoe khoang về việc đi quá sự thường tình.
Đóng Góp. Ý tưởng căn bản về việc đóng góp trong Thứ Luật 14:22-29 đã biến hóa và được trau chuốt trong suốt dòng lịch sử. Việc đóng góp có nhiều hình thức được ghi nhận trong Kinh Thánh, và người ta phải thận trọng khi thảo luận về việc đóng góp để nhận ra giai đoạn lịch sử đặc biệt của sự thực hành được thảo luận. Người Pharisiêu ở thế kỷ thứ nhất tự cho là hơn người khác ở điểm họ đóng góp hai lần, đó là, một tiêu chuẩn rất cao vượt trên những đòi hỏi của luật lệ.
Chữ Hy Lạp này thường được dịch là “người thu thuế” thì có thể diễn tả ba loại người trong thế kỷ thứ nhất: (1) người mua quyền lợi từ chính phủ để thâu các thuế đặc biệt; (2) các giám sát viên, giám đốc vùng, giống như ông Giakêu (một “trưởng” thu thuế hay quản lý); và (3) nhân viên hay quản lý thu thuế cách gián tiếp qua lộ phí (toll) tại các trung tâm vận chuyển hay thương mãi lớn như Giêrikhô và Caphácnaum. Các thành viên của loại thứ ba này được thuê mướn bởi các thẩm quyền cao hơn, vì thế ông Gioan Tẩy Giả thúc giục họ đừng thu tiền nhiều hơn mức “ấn định” (Luca 3:12-12). Ai đó đặt ra thuế xuất. Trong khi bị khinh miệt và bị né tránh bởi người Pharisiêu, các nhân viên thu thuế họp thành các nhóm mà họ đáp lại lời ngôn sứ Gioan và Đức Giêsu.
Nhân viên thu thuế trong dụ ngôn này bày tỏ sự khiêm tốn tương phản với người Pharisiêu vênh váo. Ông đứng ở xa và giữ tư thế thường lệ khi cầu nguyện: tay ôm lấy ngực và mắt nhìn xuống. Đấm ngực là một cử chỉ riêng của phụ nữ vùng Trung Đông (Luca 23:27). Đàn ông chỉ dùng cử chỉ này khi vô cùng đau khổ, như ở đây và giống như trong Luca 23:48. Nhân viên thu thuế chỉ đơn giản lập đi lập lại: “Lậy Chúa xin thương xót con. Con là một người tội lỗi.” Hoặc như chúng ta đã nhận xét về sự thương xót trong bài 28 Thường Niên, “Xin Chúa ban cho con những gì Ngài nợ con. Hãy chu toàn nghĩa vụ cá nhân giữa Ngài và con. Con là một người tội lỗi.” Người Pharisiêu nghĩ ông đã làm nên mọi sự, nhưng nhân viên thu thuế là người được Thiên Chúa công chính hóa (c. 14). Người Pharisiêu không cần gì; người thu thuế nhìn nhận rằng ông ta cần Thiên Chúa.
Câu nói sau cùng về sự tán dương và khiêm hạ chính mình được hiểu là một “lời thả nổi”. Nó xuất hiện ở đây và trong 14:11, cả hai câu chuyện nhắm chỉ trích người Pharisiêu. Các hình thức khôn ngoan khác được thấy trong Mátthêu 18:4; 23:12; Giacôbê 4:6, 10; và 1 Phêrô 5:6. Trong quan điểm văn hóa về vinh dự và nhục nhã, người ta luôn phải đề phòng khi đưa ra một điều rỗng tuếch hay dễ bị gạt bỏ. Ngồi sai chỗ thì nguy hiểm; ngồi thấp hơn và được mời lên cao thì khôn ngoan hơn.
Nhưng động từ trong câu này thuộc loại tiêu cực “về thần học”, một điều rất phổ thông trong Kinh Thánh. Khi lập câu kiểu tiêu cực, chủ từ thì không được nhắc đến nhưng có thể được suy đoán từ bối cảnh. Trong Kinh Thánh, khi không nói rõ người chủ động thì được hiểu là “Thiên Chúa”. Như thế, bất cứ ai khiêm tốn sẽ được nâng lên (dĩ nhiên, bởi Thiên Chúa); và ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống (dĩ nhiên, bởi Thiên Chúa).
Nói cách khác, đây là một câu chuyện về sự đảo ngược của Thiên Chúa. Các phương cách của Thiên Chúa thì không như kiểu cách loài người suy nghĩ và hoạch định. Hầu hết con người ta trải qua cuộc đời đều có những thành công và thất bại. Đôi khi các tín hữu có thể khám phá ra rằng trong những gì được coi là thất bại, mà đó là những thí dụ cho những đảo ngược của Thiên Chúa, có một kế hoạch tốt hơn, một phiêu lưu bổ ích hơn. Những gì lúc đầu tưởng như thất bại thì có thể đó là một cơ hội để chấn chỉnh lại đường hướng.