Anh chị em thân mến
Chắc hẳn nhiều lần chúng ta phải thất vọng vì con người của mình sao mà tồi tệ xấu xa quá. Nhiều lần chúng ta cố gắng sửa đổi bản thân cho tốt hơn. Nhưng cũng nhiều lần chúng ta thất bại.
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Chúa Giêsu biến hình ra vinh quang; Thánh Phaolô hứa chúng ta cũng sẽ được biến đổi như thế nhờ quyền năng Thiên Chúa.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy kết hợp với Chúa Giêsu và xin Người biến đổi chúng ta.
Các bài đọc Cựu Ước từ Chúa nhật II Mùa Chay trở đi tuần tự nhắc lại những chặng đường quan trọng của Lịch sử Cứu độ. Hôm nay, đoạn sách Sáng thế đề cập đến chặng đầu tiên: Thiên Chúa kết giao ước với Abraham. Nhân loại cũ do nguyên tổ Ađam kể như đã hư mất vì tội lỗi. Thiên Chúa quyết định thành lập một nhân loại mới bắt đầu từ Abraham. Nếu Abraham chọn Thiên Chúa là Chúa của mình và tin vào Người, thì Thiên Chúa sẽ là Đấng bảo vệ ông, Người sẽ làm cho có một dòng dõi đông đức, là dân riêng của Người.
Giao ước được ký kết theo nghi thức thời xưa: Một số con vật được xẻ đôi đặt ở hai bên; những người kết ước đi giữa những con vật xẻ đôi ấy, ngụ ý rằng nếu không tuân giữ giao ước thì cũng sẽ bị chết phanh thây như những con vật ấy. Trong bài tường thuật này, chỉ có Thiên Chúa (được tượng trưng bởi lửa và khói) đi qua những con vật ấy, Abraham không đi qua, bởi vì đây là giao ước đơn phương: chỉ mình Thiên Chúa cam kết thôi.
Hình ảnh những mãnh cầm tượng trưng cho những thế lục thù địch. Chúng xà xuống trên những con vật để phá việc ký kết giao ước ấy. Nhưng Abraham đã xua đuổi được chúng.
Thánh vịnh 26 được phụng vụ chọn đọc tiếp theo bài đọc I vì nó diễn tả đúng tâm tình của Abraham: quyết chọn Chúa là chỗ nương tựa của mình và tuyệt đối tin tưởng nơi Người.
Chúng ta nên để ý tới bối cảnh của việc Chúa Giêsu biến hình:
1. Người biến đổi hình dạng ra vinh quang sáng láng đang lúc cầu nguyện.
2. Có một số chi tiết cho thấy cuộc biến hình này có liên quan tới việc Chúa Giêsu chịu chết và sống lại:
Như thế Chúa Giêsu hôm nay biến hình để cho 3 môn đệ thân tín thấy trước một chút vinh quang thật của Người, nhờ đó các ông sẽ đỡ hoang mang khi sau này thấy Người chịu nạn chịu chết.
Mở đầu trích đoạn này, Phaolô kêu gọi tín hữu Philipphê hãy noi gương bắt chước Người. Sở dị Phaolô dám kêu gọi như thế vì Phaolô cũng đã bắt chước tổ phụ Abraham, đặt trọn niềm tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa.
Phaolô còn khuyến khích rằng nếu chúng ta đặt trọn niềm tin tưởng cậy trông nơi Thiên Chúa thì Người sẽ dùng quyền năng của Người mà chế ngự tất cả những yếu đuối của thân phận con người và biến đổi chúng ta thành vinh hiển như Người.
Ơn gọi của Abraham là bỏ xứ Ur thuộc Mesopotamie tiến vào Canaan. Người không đức tin sẽ cho Abraham là kẻ lắm tham vọng và tin hão huyền: bỏ cái đang có, đi tìm cái viển vông. Abraham bỏ ruộng vườn, nhà cửa theo ơn gọi, tìm sự vất vả, sống thiếu thốn và khó khăn. Ông lùa đàn vật và dẫn gia nhân vào chốn vô định. Trước mặt ông là giải sa mạc mênh mông, nắng cháy da diết, cỏ cây úa vàng, giọt nước quí hơn kim cương. Vì tín trung với ơn gọi, Abraham đã thành công, trở thành anh hùng lập quốc, được chúc phúc và biến hình.
Ơn gọi của Phaolô là quên đi dĩ vãng, diệt cái kiêu căng và cuồng tín Biệt Phái. Từ thái cực là một kẻ hung hăng bắt đạo, Phaolô đã mềm nhũn và ngoan hiền dưới ánh sáng kỳ diệu với lời trách nhẹ nhàng: "Saulê, sao người bắt bớ Ta?". Phaolô làm bạn với nhóm 12 và trở thành Tông Đồ Dân Ngoại. Phaolô vui nhận thử thách, không ngừng thuyết giảng, và trung thành đến giọt máu cuối cùng. Phaolô đã được lột xác và biến hình.
Lịch sử Giáo hội ghi nhận nhiều cuộc biến hình khác. Từ say rượu đến say Chúa; từ gái giang hồ thành thánh nhân; từ trai tứ chiếng nên đấng lập dòng; từ kẻ khô khan đến người sốt mến; từ người tham lạm, hà khắc trở thành kẻ rộng lượng và khoan nhân... Đó là những cuộc canh tân và biến hình đã, đang và còn tiếp tục xảy ra trong Giáo hội. Đồng thời chứng minh rằng ơn Chúa dư đủ cho mọi người và Chúa đang thắng ma quỉ, xác thịt và thế gian nơi cung lòng mỗi cá nhân.
Phúc Âm hôm nay hé lộ một chút vinh quang và sự cả sáng của Cứu Chúa khi Người đàm đạo với hai nhân vật lịch sử nổi tiếng và kính yêu là Elia và Môisen. Tại thế, vì sứ mệnh cứu độ, Chúa Giêsu che giấu tất cả uy quyền và dũng lực của Ngôi Lời, để sống đời hèn mọn, bất lực và tầm thường của một thế nhân. Người cần ăn uống, nghỉ ngơi. Người phải đau buồn, bị chê bai và chỉ trích. Người lo lắng, và bồn chồn về cuộc thảm tử sắp đến. Nhưng điều khác biệt là Người vui đón ý Chúa Cha. Bởi vậy, một lần nữa, Chúa Cha đã khen thưởng "Đây là Con Ta Dấu Yêu, hãy nghe lời Người". Trong phút giây ngút ngàn thân thương ấy, Người bước ra khỏi cuộc đời lam lũ và ô trọc để vui hưởng phút vinh quang ngây ngất và tuyệt vời của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Không phải chỉ có Abraham, Môisen, Êlia, Tông đồ mới có ơn gọi và được biến hình. Trái lại, ơn gọi phổ quát "Hãy nên hoàn thiện như Cha các con ở trên trời" đã được trao tặng và mời gọi mỗi cá nhân. Thực thi ơn gọi ấy một cách hoàn hảo và trọn vẹn thì chúng ta ắt sẽ được biến hình.
Giám mục John Quinn trong lễ Thêm sức cho 50 em tại Sacramento năm 1983 đã mô tả ơn gọi và sứ mạng của người Việt Nam tại Mỹ như sau: "Cha rất hài lòng khi thấy các con họp nhau tôn thờ và ca tụng Chúa bằng tiếng mẹ đẻ. Các con hãy duy trì nền văn hóa và truyền thống cổ truyền, đừng để nó mai một đi. Cha vui mừng vì hình thức đạo đức bên ngoài biểu lộ đức tin anh hùng và sâu xa chúng con thừa hưởng do công quả của các Đấng tử đạo Việt Nam. Cha cảm động vì sự hiện diện của chúng con ở đây nên ánh sáng và muối đất cho những người khác".
Tin đạo, thực hành đạo là ơn gọi của chúng ta. Sống đạo và mang đạo vào đời là phương thế trong lành, thánh thiện và vĩ đại chúng ta phải thực hiện để "danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến và ý Cha thể hiện". Đừng để phú quý tạo tâm kiêu và bất cần Chúa. Đừng để ghen tương đốt cháy và tiêu hủy thiện chí. Đừng để tị hiềm gây bất mãn, đố kỵ và tranh chấp. Đừng để ích kỷ hủy hoại tình đồng hương và khóa cửa lòng. Hãy nhận diện ra ai là đồng chí để cùng nắm tay, dìu nhau bước tới và biến hình và ai là kẻ thù đang khai trừ và bắt bớ Đức Kitô trong Giáo hội để cẩn trọng, đề phòng và cảm hóa. Và nhất là hãy can đảm cùng Chúa Kitô "vạn lý trường chinh" trong âm thầm, chịu đựng. tự hủy, hy sinh, khiêm tốn, tin tưởng và phó thác. Chúng ta không bao giờ lầm đường khi bước trên những dấu chân của Đức Kitô. Đó là con đường biến hình duy nhất của ông bà, anh chị và của tôi. (Lm Nguyễn Bình An, Nguyệt san "Dân Chúa Mỹ Châu")
Hãy so sánh cảnh hôm nay với cảnh trên núi Cây Dầu:
Nhưng 2 cuộc biến hình này bổ túc ý nghĩa cho nhau: Trên núi biến hình, các môn đệ thấy được thiên tính của Chúa Giêsu vinh quang hơn bao giờ hết, khiến họ ngất ngây sung sướng, muốn ở mãi trong tâm trạng ngất ngây đó; Trên núi Cây dầu, họ thấy Thầy trong nhân tính yếu đuối hơn bao giờ hết. Con người thật của Chúa Giêsu vừa có thiên tính vừa có nhân tính. 2 biến cố bổ túc nhau giúp ta hiểu được con người thật của Người.
* Suy gẫm 2 biến cố này, ta cũng thấy được con người thật của ta: trong ta có một phần là Adam con của xác thịt, một phần là Con của Chúa.
- Cũng như Chúa Giêsu xưa trên núi biến hình, có nhiều lúc chúng ta cảm thấy ngất ngây sung sướng; thấy mình sốt sắng quá, gần Chúa qua, yêu thương anh chị em quá, sẵn sàng làm những điều tốt cho anh chị em, sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình...
- Nhưng cũng như Chúa Giêsu trên núi Cây dầu, lại có những lúc chúng ta suy sụp trầm trọng; phần Adam nổi lên lấn áp phần Con của Chúa. Khi đó ta thấy đời thật buồn nản, thấy không ai thương mình, không ai hiểu mình, Chúa hình như cũng xa mình... Từ đó ta nguội lạnh với Chúa, ích kỷ với anh chị em, khe khắt với những kẻ làm khổ mình.
+ Nhưng có một điều rất quan trọng ta hãy nhớ: Chúa Giêsu luôn cầu nguyện khi biến hình vinh quang trên núi biến hình cũng như khi biến hình thảm não trên núi Cây dầu. Cầu nguyện giúp thống nhất con người chúng ta đúng theo kế hoạnh Thiên Chúa. Đặc biệt nhớ cầu nguyện trong lúc suy sụp.
+ Và nếu ta biết cầu nguyện để thống nhất hóa con người mình như thế thì ta sẽ cũng như Chúa Giêsu được Chúa Cha âu yếm nói "Đây là con yêu dấu của Ta" (trên núi biến hình), và được thiên thần Chúa an ủi (trên núi Cây Dầu).
“Lạy Chúa, xin cho con được nếm những giây phút ngất ngây như Chúa Giêsu xưa trên núi biến hình. Trong những giây phút đó, xin cho con biết làm như Chúa Giêsu xưa: con sẽ hướng về Chúa để cầu nguyện và con sẽ được nghe lời Chúa nói: Con là con yêu dấu của Cha.
Và lạy Chúa, khi con gặp những lúc suy sụp, xin cũng cho con biết làm như Chúa Giêsu xưa: Con cũng hướng về Chúa để cầu nguyện. Và khi đó con cũng được bàn tay Chúa an ủi, nâng đỡ và xoa dịu con.” (Viết theo Mark Link, Sunday homilies)
Nét mặt con người rất quan trọng. Nhớ ai là nhớ mặt người đó. Khi ta không nhớ mặt người nào thì kể như người đó đã trở thành một chiếc bóng.
Những sắc thái của nét mặt diễn tả được rất nhiều điều đến độ đáng ngạc nhiên, bởi đó nét mặt là đối tượng nghiên cứu rất thú vị. Nét mặt luôn biểu lộ cho biết ta là ai và cuộc sống của ta như thế nào. Điều này giải thích lý do người ta hay dùng tiếng "mặt" để nói về người khác. Chẳng hạn: "Từ lâu rồi tôi không thấy mặt nó". Nhìn nét mặt một người, ta có thể đoán được cảm giác bên trong của người ấy: họ đang vui hay buồn, hay thờ ơ...
Chúng ta cũng thường nói "mất mặt". Trong trường hợp này, 'mặt" chính là danh dự của con người. Khi ta nói người nào đó có "hai mặt" thì có nghĩa đó là một con người dối trá...
Mỗi người chúng ta có nhiều nét mặt, được biểu lộ trong nhiều tình huống khác nhau: khi thì hạnh phúc, khi thì buồn rầu, khi thì bạo dạn, khi thì nhút nhát, khi thì bình thản, khi thì sợ sệt, khi thì đau đớn, khi thì vui mừng, khi thì thân thiện, khi thì giận dữ... Điều này chẳng có gì đáng xấu hổ cả, vì đó là một phần của thân phận làm người của chúng ta. Điều duy nhất đáng xấu hổ là nét mặt giả tạo, vì tất cả những nét mặt được kể trước đó đều nói lên sự thật, còn nét mặt giả tạo nói lên sự dối trá.
Tại sao người ta ngại cho kẻ khác thấy mét mặt thật của mình? Tại sao người ta hay mang mặt nạ? Phải chăng vì người ta sợ người khác biết sự thật yếu kém của mình? Có lẽ chính vì thế mà nhiều khi người ta cố làm một nét mặt tươi cười đang khi trong lòng thì muốn khóc.
Bài Tin Mừng hôm nay nói khi Chúa Giêsu ở trên núi thì mặt Người trở nên sáng chói như mặt trời. Thật lầm khi nghĩ rằng đó chính là nét mặt thật của Chúa. Thực ra, điều mà các môn đệ đã thấy là thật, nó tỏ lộ vinh quang bên trong của Người, sự vinh quang mà thường khi Người che giấu. Nhưng nói rằng nét mặt vinh quang trên núi hôm ấy là nét mặt thật thì khiến người ta tưởng rằng những nét mặt khác là không thật, là giả.
Nét mặt mà Chúa Giêsu tỏ lộ trên núi là một nét mặt đặc biệt nhưng không phải là nét mặt duy nhất của Người. Người có tất cả những nét mặt như chúng ta ta có, chỉ trừ những nét mặt giả tạo. Chúng ta đã thấy có khi Người mệt, có khi Người giận, có khi Người buồn, có khi Người vui, có khi Người trìu mến, có khi Người cảm thông... Tất cả những nét mặt ấy đều thật, vì đàng sau những nét mặt ấy là bản chất thật của Người: vừa là người hoàn toàn giống chúng ta (chỉ trừ tội lỗi), vừa là Thiên Chúa vinh quang, như tiếng từ trời phán "Đây là Con yêu quý của Ta".
Mặc dù người ta nói nét mặt là cửa sổ của tâm hồn, nhưng mỗi nét mặt che giấu nhiều hơn là biểu lộ. Điều cốt lõi của con người vẫn còn vô hình không thấy được. Mỗi người là một huyền nhiệm.
Cũng như Abraham, chúng ta phải sống bằng đức tin. Đức tin dạy rằng đàng sau những nét mặt bình thường của một người là thân phận của một người con của Chúa, một người anh chị em của Chúa Giêsu, hướng tới một vinh quang đời đời. (FM)
Trên núi Tabor, ánh vinh quang của Thiên Chúa đã tỏa chiếu từ thân xác Chúa Giêsu, và Người được biến hình. Các môn đệ đã ngây ngất trước vẻ đẹp và sự sáng ngời ấy. Đó không phải chỉ là vẻ bề ngoài, mà là vinh quang thật từ bên trong thoáng tỏ lộ ra. Nói tắt một lời: Đó là chính Thiên Chúa ở trong Chúa Giêsu.
Chúng ta cũng có vinh quang thần linh ở trong chúng ta, bởi vì chúng ta đã được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta cũng có những thoáng biến hình. Van Gogh nói: "Một người tiều phu hay một người thợ mỏ nghèo nhất cũng có thể có những thoáng cảm hứng khiến anh ta cảm thấy gần như đang ở thiên đường".
Một người nghèo sống trong khu nhà dành cho những kẻ vô gia cư đã kể câu chuyện sau đây. Một hôm ông đi dạo trên phố và tình cờ vào một ngôi nhà thờ lúc nào không hay. Ông không nhớ là lúc đó ông có cầu nguyện không, nhưng ông nhớ là cảm thấy tâm hồn mình chìm ngập trong ánh sáng. Mọi buồn chán đều tan biến hết, chỉ có bình an. Ông cảm thấy mình rất gần Chúa và được Chúa yêu thương. Cảm nghiệm này rất sâu đậm mặc dù chỉ thoáng qua trong phút chốc. Ông nói rằng ông sẵn sàng đánh đổi cả đời để có được một thoáng cảm nghiệm ấy. Khi ông rời nhà thờ, cảm nghiệm ấy tan loãng dần. Về sau, ông trở lại nhà thờ nhiều lần để mong có lại cảm nghiệm tuyệt vời ấy, nhưng không được.
Điều sai lầm của người vô gia cư trên là muốn bám cứng vào một cảm nghiệm thoáng qua. Nói cách khác, ông muốn đi lùi chứ không đi tới. Nói rõ hơn nữa: lẽ ra ông phải biết dùng cái cảm nghiệm thoáng qua ấy để soi sáng cuộc đời tăm tối của mình, và nhờ đó mà can đảm tiến bước trong hy vọng.
Phêrô cũng sai lầm như thế. Ông muốn ở lại mãi trên núi. Ông muốn bám cứng vào cảm nghiệm vinh quang hạnh phúc. Ông không muốn xuống núi tiếp tục cuộc sống thường ngày. Nhưng Chúa Giêsu đã giục ông xuống núi để đối diện với tương lai. Người không muốn cảm nghiệm trên núi ấy trở thành chỗ cho Phêrô ẩn trốn khỏi cuộc chiến đấu đang đợi chờ phía trước. Một thoáng ánh sáng Người ban cho ông là để giúp ông trực diện với giờ tăm tối sắp đến.
Nghe lời Chúa, Phêrô đã xuống núi. Nhưng lạ thay, cảm nghiệm thoáng qua hôm ấy vẫn còn sáng mãi trong lòng ông. Nhiều năm sau ông còn viết: "Chúng tôi đã được chứng kiến vinh quang của Người trên núi... Khi ấy có tiếng phán từ trời rằng: Đây là Con yêu quý của Ta, Ta hài lòng về Người" (1 Pr 1,17-18).
Chúng ta cũng những thoáng cảm nghiệm được ánh sáng và niềm vui. Những thoáng cảm nghiệm ấy cho ta thấy được đất hứa mà chúng ta phải tiến đến trong đức tin. Nhưng nên biết rằng Chúa ban những thoáng biến hình ấy là để thêm sức cho chúng ta sống những nhiệm vụ hằng ngày.
Tín ngưỡng và sự cầu nguyện không phải là những chỗ ẩn trốn, mà là những trợ lực giúp chúng ta đương đầu với gian lao thử thách. (FM)
a/ Biến đổi
Một người bán gỗ cho xưởng mộc. Anh thường thủ lợi bằng cách đo gỗ thiếu. Ngày kia, có tin đồn đến xưởng là anh ta nhập đạo. Nghe thấy thế, mọi người bán tín bán nghi rồi bàn thảo mỗi người mỗi ý. Có một người lặng lẽ ra kho gỗ, một lúc sau trở vào dõng dạc tuyên bố:
- Đúng, anh ta nhập đạo thật.
- Sao anh biết?
- Tôi vừa xem lại số gỗ anh ta chở tới hôm qua. Tôi thấy là đúng với qui cách ta đặt, không thiếu nữa.
Người nào tiếp nhận đức Kitô cũng phải thay đổi cuộc đời và sống ngay chính.
b/ Đổi tiền
Đến nước khác, việc đầu tiên mà du khách phải làm là đổi tiền của mình thành tiền đang lưu hành tại nước đó. Tiền của ta trên trái đất chẳng có giá trị gì trên trời, nếu nó không đổi thành việc lành. Đó là ý nghiã Lời Chúa nói với chàng thanh niên giầu có: cho đi gia sản của anh để mua Nước Trời.
Chủ tế: Anh chị em thân mến, nhờ mầu nhiệm Hiển dung, Chúa mời gọi chúng ta vâng nghe lời Đức Kitô và đổi mới cuộc đời. Tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Chúa Giêsu phải trải qua đau khổ thập giá / rồi mới bước vào vinh quang phục sinh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần Dân Chúa hiểu rằng / đó cũng là con đường mà mỗi Kitô hữu phải đi qua.
2. Như thánh Phêrô / ai cũng đều mong muốn được hạnh phúc trọn vẹn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người hiểu rằng / họ chỉ được hạnh phúc thật sự / khi tận tụy phục vụ tha nhân.
3. Trong đời sống thường ngày / con người gặp biết bao nhiêu là thử thách gian truân / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / trong những giờ phút đen tối nhất của cuộc đời / được ánh vinh quang Chúa tỏ hiện nơi Đức Kitô soi sáng đỡ nâng.
4. Đây là Con yêu dấu của Ta / Ta hết lòng quý mến / Các ngươi hãy vâng nghe lời Người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết chăm chỉ lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin cho chúng con biết cởi bỏ con người cũ và loại trừ những việc làm xấu xa tội lỗi, để mặc lấy con người mới theo hình ảnh Đức Kitô là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
- Trước kinh Lạy Cha: Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha. Chúa Cha rất yêu thương Người và vừa lòng về Người. Chúng ta được hạnh phúc thông chia quyền làm con của Chúa Giêsu. Vậy chúng ta hãy cùng với Người dâng lên Chúa Cha những tâm tình hiếu thảo của chúng ta.
- Lúc chúc bình an: Chúng ta hãy chúc bình an cho nhau trong tâm tình mến yêu nhau thực sự; và cũng hãy nghĩ đến những người xích mích với chúng ta mà hiện không có mặt trong Thánh lễ này, với quyết tâm cũng muốn hòa giải với họ nữa.
Sau khi các môn đệ được chứng kiến vinh quang Chúa Giêsu trên núi, Chúa Giêsu đã bảo các ông xuống núi tiếp tục cuộc sống hằng ngày. Chúng ta cũng vừa chứng kiến vinh quang Chúa trong Thánh Lễ. Giờ đây chúng ta hãy trở lại cuộc sống, tiếp tục những nhiệm vụ thường ngày với một sức mạnh mới.