Thúc hỏi:
Ðảng cộng sản và chính phủ Việt nam đã làm gì anh quá đáng? Bắt nhầm ở tù mười mấy tháng có sao đâu? Họ đã nhầm giết hại cả triệu người trong luật cải cách 56. Tại miền bắc cũng thế thôi, Ðảng sai, đảng sửa. Hơn nữa ngày trước anh bị mất nhà ở Nhà bè và xe cộ, rồi anh lại được nhà ở Chợ Lớn- L N Học. Rồi không thích chợ lớn về Vạn Kiếp, có gì không thỏa mãn mà than vản, mất xe tựu lại 2 ba chiếc trên 250cc, vespa. Honda đều có cả, chiếc đi, chiếc xơ cua.
Việc cá nhân mình bị một chế độ hiểu lầm hay bị vu khống, bị bỏ tù, bị tịch thu tài sản, chưa phải là một việc quan trọng so với nỗi đau của gia đình, của họ hàng, của làng xóm của cả dân tộc trong suốt nửa thế kỷ mà tuổi đời mình được sinh ra và lớn theo. Hiện nay anh vẫn còn một ngôi nhà tại Tân Quy đang bị tịch thu trong tay Cộng Sản, nhưng sự mất mát về vật chất của cá nhân anh đâu có nghĩa lý gì đối với hằng triệu người đã chết vì trót tin theo chủ nghĩa Cộng Sản cuồng sát; hằng triệu người khác đã hy sinh vì chiến đấu chống lại Cộng Sản vô thần hiếu chiến. Toàn dân đã bị lột sạch.
Sau 30.4.1975, anh tưởng hòa bình đến thật cho Việt Nam, anh đã bỏ gần hết số tiền mặt mình còn để giúp cho 1.500 người đang tỵ nạn chiến tranh tại Việt Nam Quốc Tự được hồi hương. Uỷ Ban Phật Giáo Yêu Nước đã nhận số tiền của anh và cấp cho một tờ giấy khen; ba tháng sau đó anh bị bắt, CS đã bắt anh giải thích ''ý đồ, mục đích'' gì đã thúc đẩy anh bỏ tiền ra giúp đồng bào hồi hương? Khi ấy anh bàng hoàng. Anh không tiếc số tiền mình đã bỏ ra giúp đồng bào, nhưng tiếc vì mình đã ngu ngơ tin vào một chế độ ma quỷ.
Ngày nay trên 70.000.000 đồng bào Việt Nam vẫn tiếp tục bị cai trị với một chính sách ngu dân, phi nghĩa, tham nhủng, đùn đẩy vô trách nhiệm. Tình trạng nầy đã làm băng hoại niềm tin trong tuổi trẻ. Thúc có biết ngày nay tuổi trẻ Việt Nam đã bị thui chột, bị sa đọa, bị chìm sâu trong quốc nạn ma túy xì ke như thế nào không? Năm 1997, tại một trường học ở Phú Nhuận mà anh không nhớ tên đã có trên 300 em thiếu niên nghiện ma tuý bị bắt gặp một lúc. Báo chí cộng sản đã loan tin hàng ngàn trẻ em Hà Nội nghiện kẹo tẩm chất ma túy. Cũng báo chí cộng sản loan tin Vũ Xuân Trường, một sỹ quan An Ninh Quốc Gia của chế độ CSVN đã buôn hàng tấn thuốc phiện từ Lào vào VN. Khi đường dây buôn lậu quốc tế nầy bị bể, CSVN chỉ kết án tử hình một người Lào. Khi mới bị bắt, người Lào nầy vẫn giữ bí mật cho các đảng viên cao cấp CSVN, vì tin rằng các vị lãnh đạo trung ương đảng CSVN sẽ bảo vệ mình. Nào ngờ y đã bị lường gạt để làm con cờ thí nhằm bịt đầu mối. Ðến giờ phút chót, khi bị đem ra xử bắn, hắn la toáng lên những nhân vật trung ương đảng Cộng Sản có chân trong đường dây buôn lậu thuốc phiện quốc tế nầy. Người trực tiếp chỉ huy y là tay công an gộc Vũ Xuân Trường, sỹ quan ninh quốc gia. Lời tri hô của y đã thấu tai dư luận. Ðảng Cộng Sản bị bắt buộc phải công khai hóa vụ Vũ Xuân Trường tham gia buôn lậu thuốc phiện. Ðến lượt Vũ Xuân Trường bị kết án tử hình, hắn cũng tri hô lên như ông người Lào kia rằng còn các vị trung ương đảng nữa. Nhưng đến đây tòa án cộng sản đã vội vàng bắn Vũ Xuân Trường để bịt đầu mối để bảo vệ uy tín cho các nhân vật cấp cao trong ''Ðảng ta''!
Thúc thử nghĩ một dân tộc đã bị Cộng Sản đẩy vào ngõ bí, nghèo khổ, bất công như thế mà mình chỉ biết tiếc vài chiếc xe, vài ngôi nhà của mình đã bị tịch thu thôi sao? Cộng Sản đã hứa cho anh đủ thứ để qua Mỹ làm kiều vận cho chúng, anh cũng dứt khoát từ chối, dù hậu quả của sự từ chối nầy là phải chịu bơ vơ, chịu hiểu lầm như hôm nay. Suốt 23 năm anh đã im lặng sống trong chế độ cộng sản để tận mắt quan sát kỹ lưởng một thực tế đau lòng của lũ quỷ đỏ nầy. Chúng đã từng muốn sử dụng anh vào những mục đích đen tối, nhưng anh không vì tham lợi mà cộng tác với kẻ ác.
Sau 21 năm cai trị miền Bắc (1954-1975), đảng CSVN đã đánh gục toàn bộ những thành phần khác tư tưởng qua hệ thống tù đày và sát hại. Ðảng gom dân vào từng tổ nhỏ, đến đơn vị tập đoàn, hợp tác xã để nắm tư tưởng, hành vi của người dân qua cách ăn ở, giờ giấc sinh hoạt chung và riêng. Ðảng phân loại tùy theo trình độ, tuổi tác để nắm chặt từng thành phần dân chúng. Nhi đồng theo nhi đồng. Phụ nữ theo phụ nữ. Nam đinh theo nam đinh. Lão niên theo lão niên. Nào là Ðoàn Thanh Niên Cộng Sản, Ðội Thiếu Niên Khăn Quàng Ðỏ, Ðội Nhi Ðồng Cháu Ngoan Bác Hồ, Hội Phụ Nữ, Hội Phụ Lão, Hội Nhà Văn, Hội Trí Thức, Ủy Ban Tôn Giáo, Hội Nông Dân, Hội Nhà Báo, Hội Làm Vườn, Hội Dâu Tằm ... Tất cả các đoàn thể ấy do đảng CS thành lập và lãnh đạo. Mọi tầng lớp nhân dân bị ép buộc răm rắp phải gia nhập. Tất cả đoàn thể hay cá nhân đều bị bắt buộc phải ca tụng đảng CS và bác Hồ là sáng suốt, là vô địch, là thần thánh! Ai đứng ngoài là bị xếp vào thành phần chống đối, bọn xấu, tầng lớp chưa tiến bộ, giai cấp lưng chừng cần phải được cải tạo.v.v. Ðảng áp dụng triệt để chính sách hộ khẩu, lường cho mỗi khẩu phần một lượng sắn khoai ít ỏi. Ðảng đẩy dân vào các nông trường, công trường lao động đến mệt nhừ. Ðói, mệt, thiếu thốn, không có những thông tin xa gần ngoài những bài học chính trị nhồi sọ ban đêm gọi là ''sinh hoạt văn hóa chính trị''. Người ta trở nên thèm ăn, thèm nghỉ liên tục. Xã hội chủ nghĩa không chết đói, nhưng đói cho đến chết. Từ đó Ðảng bắt đầu cổ xúy giới trẻ ''xung phong'' vào quân đội để thực hiện xâm lăng miền Nam. Ðảng mở ra một cánh cửa ưu tiên: Ai hăng hái nhập ngũ vào Nam thì gia đình ở lại được khẩu phần khá hơn, được phiếu mua các nhu yếu phẩm nhiều hơn một chút. Vì quá thiếu thốn, quá đói, gia đình nào cũng phải hy sinh một người để cả nhà được sống sót. Từ hy sinh một người, tiếp theo một người nữa và một người nữa... Khi các thế hệ kế tiếp đủ tuổi ra đi. Người ra đi cũng chấp nhận cái chết cho thân nhân ở lại được ''ưu đãi'' phần nào cho nhu cầu bao tử.
Ðó là chiến lược mà đảng CS vận động toàn dân đi vào sự chết một cách tài tình, rất có kỹ thuật. Người ra đi, dù không anh hùng cũng phải tỏ ra anh hùng, để lấy tiếng cho gia đình ở lại có miếng ăn chính trị và được yên thân. Miếng ăn chính trị đến nơi cửa miệng là một bước tiến thân để được lên cấp, để có cơ hội cai trị người khác hơn là bị người khác cai trị. Sau khi đã thí ba triệu người như thế để chiếm miền Nam, đảng CS cũng áp dụng đúng chiến thuật chiến lược kềm kẹp người dân như thế tại miền Nam. Từ 1975 đến nay, đảng CS kẹp từng cái bao tử cho đến sự suy nghĩ của từng người. Cuối cùng con người trở nên kiệt quệ, mất dần nhuệ khí. Chỉ còn bản năng sinh tồn, bảo chi nghe nấy. Không còn mơ ước gì hơn là được sống thêm giờ nào hay giờ nấy. Ðược ăn miếng nào hay miếng đó. Lâu ngày con người mất dần tình cảm cá nhân. Mất luôn cả sự chung thủy vợ chồng, hiếu thảo, niềm tin tôn giáo... trở thành cái máy. Con người chỉ còn lại thói quen lươn lẹo để được sống qua ngày. Sau 11 năm liên tục bóp nghẹt trái tim và bao tử của người dân với chính sách ngăn sông cấm chợ (1975-1986). Một người dân quê đi thăm bà con ở thành phố chỉ được phép mang theo từ 3 đến 5 kg gạo. Ai mang vài ký cá khô, một chục ký gạo, hay thậm chí vài ký đường cục trở lên là bị tịch thu.
Ðảng CSVN đã đưa đất nước đến chỗ nghèo mạt nhất thế giới. Trong khi đó hàng triệu thùng quà của người vượt biên tiếp tế về Việt Nam mỗi ngày chật ních phi trường Tân Sơn Nhất. Nào vải vóc, áo quần, cassette, thuốc tây, bột ngọt, giầy dép, bút mực, thực phẩm... Những triệu thùng hàng ấy đã gánh bớt cái đói, cái nghèo kiệt xác do chính sách bần cùng hóa của Cộng Sản gây ra. Ðảng vớ được một nguồn thuế cắt cổ và tham nhũng bội thu. Tuy nhiên sự kiện nầy đã trở nên phản chính trị. Toàn dân cũng như toàn đảng đã mở tráo con mắt để thấy ''tư bản dẫy chết'' là gì. Tại sao kẻ ra đi tay không nơi đất khách quê người lại gởi hàng về tiếp tế cho bà con nghèo khổ ở Việt Nam? Tại sao Ðảng luôn luôn hô to ''tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc với sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa'' mà cái vỏ xe đạp nội địa cũng không xài được? Gạo thiếu. Ăn độn bo bo mòn răng. Ăn độn sắn khoai đến sình bụng. Suy dinh dưỡng. Phù thủng. Sốt rét. Ði đâu cũng thấy ghẻ chốc, hắc lào. Tất cả các bịnh nội thương, ngoại thương đều chửa bằng một viên thuốc Xuyên Tâm Liên. Tất cả các bịnh ngoài da đều chửa bằng thuốc trị ngứa Lưu Huỳnh. Nếu không có hàng trăm tấn thuốc tây của Việt kiều gởi về trong thập niên 1980-1990 thì biết bao nhiêu triệu người đã chết sớm rồi? Tới đây, thay vì đã đến lúc phải biết hỗ thẹn, phải biết ăn năn về cái tội chuyên nghề chém giết mà không biết đắp bồi, đảng CSVN lại tráo trở làm như ta đây luôn luôn sáng suốt. Ðảng hô hào xóa bao cấp, đổi mới tư duy, kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nguyễn Văn Linh mở đầu chính sách kêu gọi nước ngoài đầu tư. Việt kiều được mời gọi đem đô la về cho đảng CS chắm mút. Ðây là giai đoạn câu ca dao ba người con Việt xuất hiện:
Việt Minh, Việt cộng, Việt kiều
Ba con Việt ấy Ðảng yêu Việt nào?
Việt minh tuổi tác đã cao
Việt cộng ốm yếu xanh xao gầy còm
Việt kiều má phấn môi son
Cho nên Ðảng mới yêu con Việt Kiều!
Mới chỉ mấy năm trước đây, Ðảng kết án những ngừời vượt biên là ''phản bội tổ quốc'', nay đảng vội vã mời họ về thăm quê và thành lập Ủy Ban Việt Kiều Yêu Nước. Trong khi hàng trăm ngàn xác liệt sĩ mất tích ở Trường Sơn, Ðảng không đi tìm nhưng lại phải tìm từng xác lính Mỹ để xin bỏ cấm vận, để kiếm chác đô la. Ðảng đã bị các gia đình liệt sỹ chất vấn: Vì sao cả chục năm thống trị toàn quốc mà không nghe Ðảng nói tới việc đi tìm xác liệt sỹ? Phải chăng Ðảng đã trở thành người làm thuê cho Mỹ để tìm xác cho con em họ? Ðể che đậy bản chất bạc nghĩa vong ân của Ðảng, để tỏ ra ''ta đây cũng tìm xác chiến sỹ'', đảng CSVN bắt đầu dấy lên phong trào ''tìm xác đồng đội''. Tại Cồn Tiên & Gio Linh, Ðảng xây một nghĩa trang lớn nhất Ðông Dương, được gọi là nghĩa trang Trường Sơn. Hàng chục ngàn mồ liệt sỹ xây thẳng hàng thẳng lớp, thế nhưng một số thân nhân các liệt sỹ ấy muốn đem hài cốt con em mình về quê chôn cất; khi đào lên lấy cốt, họ chỉ tìm thấy cát trắng không mà thôi. Các gia đình nầy đã kéo đến khiếu nại trước văn phòng tỉnh uỷ của đảng Cộng Sản Quảng Trị. Họ hỏi tại sao mồ con em của họ không có một đốt xương mà chỉ toàn là cát rắng? Sở Lao Ðộng Thương Binh Xã Hội chưa kịp giải thích thỏa đáng; một thời gian sau, những gia đình khác đến đào mộ của chồng, con mình để xem thử có xương cốt gì không. Nào ngờ khi đào lên, họ đã tìm ra rải rác những mảnh xương chó, xương trâu, bò...súc vật. Người dân mới tá hỏa tam tinh và hiểu ra rằng đảng Cộng Sản mị dân bằng cách làm mồ giả để ghi tên liệt sỹ vào mộ bia nhằm khoe rằng đảng không để mất xác chiến binh bao giờ. Ðảng tổ chức lễ ghi công rất long trọng, và thu tiền lệ phí bồi dưỡng mỗi nấm mộ là 50.000 đồng, nhưng khi dân khám phá mộ không có xác, Ðảng sợ quá phải bí mật nhét xương heo, xương chó vào mộ để chùi mép. Vì Ðảng bắt thân nhân đóng 50.000 đồng bồi dưỡng cho cán bộ sở Lao Ðộng Thương Binh Xã Hội đi tìm xác. Vậy Ðảng đã lường gạt dân để ăn biết bao nhiêu tỷ trên những cụm cát trắng và xương heo, xương chó đó?
Ngày xưa Ðảng đẩy con người ta vào chỗ chết, ngày nay làm bộ xây mộ liệt sỹ để lấy tiền mồ hôi nước mắt của thân nhân người đã chết. Ðảng ghi ơn liệt sỹ bằng những miếng xương chó trá hình xương liệt sỹ. Có thời đại nào con người làm chính trị vô nhân đạo tới mức đó không? Thử hỏi những gia đình liệt sỹ nghĩ gì sau 24 năm con em mình chết mất tích, nay Ðảng làm cho một cái mồ liệt sỹ, khi đào lên lấy cốt, thân nhân chỉ lượm được vài khúc xương chó trong tay đem về ''thờ cúng''? Như thế người ta mới hiểu ra rằng, vì đã không tìm ra đủ hài cốt, nhưng bản chất đảng CS từ lâu vẫn quen chính sách mỵ dân, nói dối, lừa phỉnh, Ðảng đã lấy xương một người chia ra nhiều mồ vẫn không đủ, Ðảng thế vào đó bằng xương súc vật để tránh tình trạng bị đào lên ngôi mộ trống toàn là cát trắng, khó ăn khó nói với đồng bào.
Tờ báo Cửa Việt chỉ đề cập tới vấn đề ''cốt liệt sỹ sao lại là ...'' Thế là tờ báo bị đình bản một thời gian để kiểm điểm. Nhưng đảng CS phải chinh phục lòng dân bằng cách thí chốt. Ðảng bắn tử hình vài tên đảng viên tép riu trong Sở Lao Ðộng Thương Binh Xã Hội Quảng Trị để chùi mép cho các vị trung ương đảng viên cấp tỉnh uỷ đã bỏ túi biết bao nhiêu là tiền tham nhũng của dân. Những vụ làm mồ liệt sỹ giả không chỉ ở Cồn Tiên Quảng Trị mà còn ở Quảng Nam Ðà Nẵng, mộ liệt sỹ chỉ có cát trắng. Chuyện xương heo xương chó biến thành xương liệt sỹ chưa đau lòng bằng những vụ đi ăn cắp xương người dưới những ngôi mộ lâu năm để thế vào các mộ ''liệt sỹ'' đã có tên nhưng không có cốt. Những vụ ăn trộm xương người nhiều đến nỗi bị dân phát hiện, bắt buộc báo chí cộng sản phải nhìn nhận, dù nhìn nhận một cách luồn lách rất thô lỗ.
Báo Lao Ðộng đã đồng hóa vụ buôn xương người nầy với những vụ buôn xương lính Mỹ. Ví dụ như vụ cán bộ hưu trí Nguyễn Bạch Nhạn đã tổ chức ăn trộm 446 bộ xương người dưới các các mồ mả vùng Nhà Bè, Long An để đem bán cho các nghĩa trang liệt sỹ Việt Cộng tại những vùng Sông Bé, chiến khu D, Thủ Dầu Một, Củ Chi. Vì không thể che giấu được dư luận, báo Lao Ðộng của Việt Cộng đã đăng tin vụ trộm 446 bộ xương người đem bán với giá từ 5000đ đến 50.000đ/bộ. Thật ra ông cán bộ Nguyễn Bạch Nhạn đã bán hàng ngàn bộ xương như thế rồi. Con số 446 bộ xương còn giữ trong nhà chỉ là một con số nhỏ. Nếu chỉ hai cha con cán bộ Nguyễn Bạch Nhạn thì làm sao đủ sức đào bới, di chuyển, cất dấu nổi 446 bộ xương? Ðây mới là 446 bộ xương do báo Lao Ðộng số 64/93 ngày 15/8/93, trang 2 đăng tải. Còn biết bao nhiêu ngàn bộ xương ăn trộm khác mà báo chí Việt Công đã che giấu?
Không có một thời đại nào mà con người có thể vi phạm những tội ác điếm đàng, quỷ quyệt như thời đại cộng sản vô thần! (anh còn lưu giữ những bài báo nầy). Hành động ăn trộm mồ mả của cán bộ Nguyễn Bạch Nhạn đã bị dân chúng tố cáo rất nhiều lần, nhưng vẫn cứ tiếp tục xẩy ra từ 1986 cho đến 1993 mới được báo chí cộng sản loan tin chút chút. Ăn trộm hàng ngàn bộ xương người đem đi bán mà báo chí cộng sản không nói rõ thị trường tiêu thụ ở đâu một cách cụ thể. Họ chỉ đồng hóa vào các vụ xương Mỹ để lập lờ đánh lận con đen. Khi ra tòa, bị cáo chỉ lãnh ba năm tù treo! Trong khi ai kêu gọi nhân quyền cho Việt Nam là có thể bị Cộng Sản cho mang bản án trọn đời, hoặc trọn đời bị tù mà không bao giờ có án!
Thúc thử nghĩ nỗi đau của dân quê Việt Nam mình lớn đến mức nào? Em nghĩ gì về hàng trăm ngàn gia đình đã bỏ xác dưới biển Ðông do bàn tay cộng sản tổ chức bằng những chiếc ghe ọp ẹp vừa để thu tiền, vừa để giết bớt họ? Nếu chế độ cộng sản có chính nghĩa thì sự thiệt thòi của cá nhân mình vẫn được bù trừ trong toàn bộ sự ổn định của nước nhà. Ở đây chế độ CSVN lừa bịp toàn dân. Hồ Chí Minh hứa với toàn dân miền Bắc rằng đánh thắng giặc Mỹ, xây dựng gấp mười ngay nay. Nhưng khi vừa chiếm được miền Nam, cái đảng rợ Hồ đã lường gạt, bóc lột, chiếm đoạt toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của dân.
Ðảng đã cào bằng miền Nam cho nghèo mạt như miền Bắc. Họ đưa ra chính sách ngu dân, phi nghĩa qua từng đợt, từng phong trào, từng chiến dịch gọi là chiến dịch cách mạng; từ cuộc cải cách nông nghiệp, rồi cải cách văn hóa, cải tạo công thương nghiệp, tới các phong trào cách mạng kinh tế, xã hội, tín ngưỡng, đạo đức truyền thống, hành chánh địa dư ... Họ đều phá hủy tận gốc rễ vào cuộc sống của lương dân. Họ đã bần cùng hóa miền Nam để che đậy sự trù phú của miền nam mà họ đã từng tuyên truyền trái ngược ''miền Nam không có chén, phải ăn cơm bằng gáo dừa và phồn vinh giả tạo''. Người ta gọi chính sách kinh tế của Cộng Sản là chính sách cào bằng.
Ðó là lý do mà toàn dân đau khổ và hậu quả là sự suy đồi đạo đức với tốc độ chóng mặt trên xã hội Việt Nam. Khi con người ta đang đói, họ cần được ăn cái đã; đạo đức tính sau. Khi người ta đang nghèo, họ cần kiếm sống cái đã; văn hóa tính sau. Thúc có biết tại sao trong xã hội cộng sản, những kẻ ăn trộm phải đi đào bới những xác chết lâu năm chôn dưới đất không? Một điều đã xẩy ra thông thường kể từ sau 1975, đó là nhiều mồ mả bị đào bới để lấy trộm các nhẫn vàng, răng vàng trong hài cốt. Nguyên nhân từ đâu mà việc nầy xẩy ra? Nói tắt là do nghèo. Nhưng không chỉ bởi nghèo vật chất thôi đâu mà còn nghèo tâm linh nữa. Ý anh nói là triết lý vô thần đã hủy hoại tâm linh con người. Do đó người ta không còn thấy gì là thiêng liêng nữa. Những tay ăn trộm đào ngạch dưới mồ mả không phải là những tay nghèo vật chất đâu. Trái lại, họ là những đảng viên giầu có nữa kìa. Ðảng Cộng Sản rất ưa đào mồ mả, dời nghĩa trang. Một trong những nguyên nhân kín đáo là ý đồ trục lợi của những ông lãnh đạo có kinh nghiệm giải tỏa, di dời mồ mả. Họ đã thu lượm, ăn chia những chút vàng trong nhiều xác chết. Do đó mỗi lần tạo được lý do giải tỏa nghĩa trang, các đảng viên nhà nghề nầy có đủ dụng cụ để dò tìm vàng nơi những hài cốt. Khi dò được tín hiệu vàng, máy dò cho biết số lượng nhiều hay ít, nằm ở vị trí nào. Dù thân nhân của nấm mộ có mặt ở đó, họ vẫn giành quyền ''chuyên gia đào bới'' và nhảy xuống lấy vàng trước khi cho phép thân nhân lấy cốt lên. Máy móc của họ có khả năng định vị một cách chính xác nơi nào có răng vàng, nhẫn vàng. Họ lấy rất nhanh và rất khéo léo, lận vào tay áo của họ. Những chuyên gia đào mồ mả nầy càng ngày càng say máu tìm vàng dưới mồ mả. Họ có sẵn dụng cụ nhà nghề, sẵn có quyền Ðảng giao trong tay. Họ hợp tác với cơ quan địa chất, khảo cổ của Ðảng. Thế là họ tổ chức các cuộc thăm ''dò địa chất'' hợp pháp, dùng máy rà trên các nghĩa trang, các lăng tẩm, các mồ mả xưa. Họ vẽ được bản đồ vị trí vàng. Từ đó các mồ mả xưa được moi bằng đường luồn rất chính xác ở dưới đất. Nhiều mồ mả quan quyền xưa ở Huế đã bị đào trộm từ lâu, nhưng bên trên lăng tẩm vẫn còn nguyên. Những thân nhân thuộc giòng dõi danh gia vọng tộc có khám phá ra thì cũng đã muộn, đành im lặng. Vì nói ra chẳng có lợi gì mà có thể bị nguy hại đến an ninh bản thân, còn bị mang tiếng xấu. Theo quan niệm phong kiến ''nhà vô phúc, mới bị đào mả''.
Trước 1975 tại miền Nam, chỉ có nghĩa trang quân đội là do chính phủ quản lý. Tất cả các nghĩa trang khác đều do các tộc họ, tôn giáo hoặc hội ái hữu, đồng hương thành lập. Khi Cộng Sản vào miền Nam, các nghĩa trang quân đội hầu như bị phá, bị bỏ hoang phế. Thời gian đầu, thân nhân không dễ gì công khai đến đó chăm sóc mồ mả của người chiến sỹ quân lực VNCH. Các nghĩa trang tư nhân, hội ái hữu và tôn giáo thì bị trưng thu vào tay Ðảng. Ðảng chỉ định những ban quản lý nghĩa trang để thu tiền từ khâu tổ hợp mai táng, bán quan tài, đến khâu chôn cất, xây mộ. Ðảng không muốn tư nhân xen vào, vì đây là một nguồn lợi khai thác từ kẻ chết mà chỉ có cán bộ, đảng viên mới được hưởng. Từ đó những vụ trộm cắp quan tài đã xẩy ra thường xuyên. Những gia đình có máu mặt thường sắm những quan tài đắt giá. Chính những nấm mồ nầy đã bị kẻ trộm đào lên để tráo quan tài. Ai vô đó ngoài những nhân viên ban quản lý nghĩa trang của Ðảng Cộng Sản? Ở miền quê, Ðảng bắt dân giải tỏa nghĩa trang để có đất trồng khoai. Do cái nghèo tâm linh của chủ nghĩa vô thần, chế độ cộng sản là một chế độ mà người sống, người chết đều bị hành hạ, bị bóc lột, bị trộm cắp. Người xưa đã nói bần cùng sinh đạo tặc là rất thực tế. Ngày nay dân gian đã chuyền miệng cho nhau những câu vè mỉa mai chính sách phi nhân của đảng Cộng Sản như sau:
Ðào mồ cuốc mả trồng khoai
Chết rồi còn chiếm đất đai làm gì!
Vô thần chết chẳng còn chi
Ðảng ta duy vật nhất nhì thế gian!
Ðể được nói lên sự chua xót nầy, dân mình có một câu cao dao mới để chỉ cho giới đảng viên có uy quyền:
Muốn no, phải đào mồ mả
Muốn thong thả, phải nạo thai
Muốn nắm đầu ai, cầm tờ hộ khẩu
Muốn gương mẫu, phải đạt 4Ð.
Gương mẫu phải đạt 4Ð là gì? Trong xã hội cộng sản Bắc Việt trước 1975, Ai được vào Ðảng mới hy vọng sở hữu được một chiếc xe Ðạp, một cái Ðồng hồ và một cái Ðài (radio). Ðó là giấc mơ 4Ð (đảng, đạp, đồng, đài). Ngày nay nhà thơ thần đồng cộng sản Trần Ðăng Khoa viết lại những kỷ niệm quý giá của đời mình khi được nhà xuất bản Kim Ðồng trả tiền nhuận bút bằng một cái đài Nhật như sau: ...Anh Bùi Hồng mang về nhà tôi một cái đài Nhật, có cả giấy đăng ký sử dụng máy thu thanh nữa, giấy đề hẳn tên tôi. Sau đài là một dòng chữ khắc mầu vàng: ''Thân tặng em trần Ðăng Khoa - Nhà xuất bản Kim Ðồng''. Ðó là một sự kiện lớn ở làng tôi, sau đó tin nầy lan truyền khắp huyện......... Không gia đình nào có đài bán dẫn. Bởi thế, cái đài của nhà xuất bản Kim Ðồng cho tôi, quả là một món quà đặc biệt sang trọng. Chả thế, trong làng, thỉnh thoảng lại có anh đến mượn, để đeo đi...hỏi vợ. (Chân dung và Ðối Thoại của TÐK, trang 310, nhà xb Thanh Niên Hà Nội, 1998). Nhân đọc sách bình luận văn chương của nhà thơ Việt Cộng nầy, chúng ta thấy rằng trong chế độ cộng sản ở miền Bắc, người dân không dễ gì được phép sở hữu một cái radio. Tất cả đều phải nghe loa công cộng. Nếu ai có một chiếc radio thì phải xin giấy phép sử dụng để khỏi bị kết tội ''nghe lén đài địch''. Chính sách kềm kẹp lỗ tai của người dân do Việt Cộng thực hiện quả là ''cao siêu''.
Ngày nay đảng CSVN đã chuyển qua kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sau khi đảng viên đã đào hết mồ mả rồi. Họ phải chuyển hướng chia phần nhau trong các hợp đồng đầu tư với tiền vốn nước ngoài. Ðảng viên giai cấp vô sản bây giờ trở thành triệu phú đô la, tỷ phú tiền đồng nên dân mình cũng có câu:
Ðảng viên xế hộp, vi-la
Dân cày ruộng khoán nhà nhà độn khoai.
Hoặc:
Ðảng ta là đảng thần tiên
Ða lô thì được, đa nguyên thì đừng.
Thần tiên nói lái là thân tiền. Ða lô nói lái là đô la. Hai câu nầy đăng trong báo Ðà Nẵng khoảng 1996. Ðồng tiền tham nhũng đã biến anh chàng Việt Cộng đói rách vô sản trở thành tư bản đỏ. Quyển sách lý tưởng vô sản chuyên chính của chủ nghĩa Mác-Lê nay đã bị đảng CSVN làm giấy vệ sinh cả rồi. Bây giờ anh đối lại bài ca dao Ba Người Con Việt thành ra Ba Người Việt như sau:
Việt kiều, Việt cộng, Việt Minh
Ba người Việt ấy thật tình khác xa
Việt kiều thương nhớ quê nhà
Việt cộng mập mạp như là con heo
Việt minh mang tiếng đói nghèo
Ðảng bèn đổi mới ăn theo Việt kiều
Vâng, Ðảng đã thấy được nguồn lợi ngoại tệ khổng lồ do Việt Kiều gởi về cho thân nhân họ. Một mặt Ðảng đổi mới ăn theo Việt Kiều, một mặt khác, Ðảng tăng cường xuất cảng con người ra ngoài làm cu-ly để thu gom ngoại tệ. Chỉ có những đảng viên, cán bộ, người mang lý lịch đỏ mới được xếp vào hạng A để được đi làm cu-ly nước ngoài. Còn thành phần dân lao động hạng B, hạng C, Ðảng giành cho cho tư bản nước ngoài vào bóc lột. Các xí nghiệp, xưởng máy nước ngoài được xây lên trông đồ sộ, nhưng bên trong công nhân Việt Nam bán từng giọt mồ hôi rẻ mạt pha với nước mắt. Ai đã hiểu thấu sự bóc lột dã man trên sức lao động của thợ thuyền trong các hảng xưởng tư bản ngoại quốc tại Việt Nam? Ðồng lương công nhân đã quá rẻ, thế nhưng Ðảng đã ăn bớt số lương thấp hèn của họ ít nhất từ 30% đến 60%. Một người thợ may phải làm việc trên 12 tiếng mỗi ngày. Lương ký trong hợp đồng với chủ đầu tư nước ngoài là 80USD/tháng. Trên thực tế, người thợ may phải làm việc nhiều hơn, và số tiền lãnh được thường là 30 đến 40UDS/tháng.
Khổ quá, bất công quá, thiếu thốn quá, đói quá buộc người thợ phải ăn cắp. Thợ may ăn cắp kim chỉ. Thợ thêu hảng Nike, Trium ăn cắp xì líp, áo thun. Thợ giầy ăn cắp keo dán và da thuộc, thợ xâu cườm ăn cắp hột đá mầu, thợ chế biến hạt điều lén cho vào miệng, thợ cơ khí ăn cắp kềm, đinh ốc, bạc đạn, sắt vụn. Thợ hồ ăn cắp đá, xi măng. Tài xế ăn cắp xăng. Nhân viên hỏa xa ăn cắp thỏi đồng kẹp bánh sắt thắng tàu lửa. Một hôm đoàn tàu đang chạy bỗng nhiên thắng không đứng, lúc đó mới khám phá ra các thỏi đồng má thắng (gọi là guốc phanh) đã bị mất cắp gần hết. Còn nhân viên trên toa thì bán vé chợ đen, buôn lậu. Công chức ăn cắp thời gian. Công nhân không đủ giờ ngủ, không đủ giờ giặt áo quần, làm gì có thì giờ với bạn bè, làm gì có người yêu, làm gì được đi chùa, đi nhà thờ? Em biết tại Việt Nam ngày nay có bao nhiêu triệu tuổi trẻ đang lao động theo chính sách kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như thế không? Nên nhớ rằng họ là những người được may mắn bên cạnh hàng triệu người thất nghiệp đấy! Em sống ở Mỹ, có tiền của, có tự do, có tiến bộ, có bao giờ em nghĩ đến đồng bào ruột thịt ở quê nhà không? Chắc chắn phải có rồi. Vậy em nên làm một cái gì để góp vào tiếng nói của người Việt tha hương còn thương quê nhớ cảnh chứ! Nếu em sống đàng hoàng có tư cách thì tiếng nói của em sẽ có kết quả. Nếu em chỉ biết đổ mồ hôi để kiếm đô la về lòe Việt Cộng, thì anh khỏi bàn. Rồi phải có một ngày người dân trong nước nổi lên như cơn lốc xua đuổi loài quỷ đỏ như đuổi tà; em nghĩ sao? Hãy nhớ rằng dù sống nơi đâu, những giọt máu Lạc Hồng trong em vẫn quý hơn cả một ao nước lã!
Suốt nửa thế kỷ qua dân tộc Việt Nam bị loài ma cộng sản cai trị bằng chiếc còng và tờ hộ khẩu. Hàng triệu người trốn ra nước ngoài vẫn còn mang vết thương tâm lý xã hội nầy. Một số người che giấu vết thương của họ bằng cách lao vào việc kiếm tiến làm giầu, hưởng thụ để xua đuổi quá khứ tủi nhục. Cho nên bây giờ ai còn ý chí, còn lý tưởng muốn giải phóng dân tộc thì vẫn bị một số lực cản từ trong cũng như ngoài nước. Tại Việt Nam đã có những thanh niên thẳng thắn nói lên tiếng nói lương tâm. Có nhiều người đã trả giá cho tiếng nói lương tâm của họ, nhưng không ai biết đến, trừ một số ít người nổi tiếng trong gìới trí thức, tôn giáo mà em từng nghe. Thật ra người dân đã vô cùng phẫn uất, nhưng chưa tạo được cơ hội vùng lên. Cộng Sản vẫn tìm đủ mọi cách để làm cho ý chí người dân suy kiệt : bỏ tù, hăm dọa, phân rẽ gia đình, phân rẽ tôn giáo, gây mâu thuẩn nội bộ các tôn giáo. Cộng Sản cài người theo dõi nhau từ thôn làng đến khu phố, từ cơ quan hành chánh đến học đường. Bằng mọi cách, họ bóp nghẹt tiếng than thở của đồng bào.
Tinh thần dân chủ của Cộng Sản được thể hiện như câu chuyện sau đây. Một buổi họp tổ dân phố, Ðảng cho phép dân phê bình tác phong của công an khu vực. Ở ngay khu phố nhà anh, một em học sinh tên Cường đã nêu lên vài ý kiến phê bình thái độ hống hách của tay công an khu vực. Cường tưởng rằng Ðảng và nhà nước CSVN bắt đầu cởi mở thiệt tình. Thế là cả gia đình Cường bị trù dập liên tục. Cha mẹ của Cường bị cất giấy phép làm ăn. Những đứa em của Cường bị thiếu giấy tờ chứng nhận của địa phương nên khó vào trường, bản thân Cường bị xếp vào loại ''bất hảo''. Bị chính quyền địa phương đưa vào trường lao động tập trung Quận 5 Sông Bé. Cảm thấy mình bị oan ức, bị đói khổ, bị hiếp đáp, Cường vượt ngục, chạy không nổi, té ngã què chân. Về Sài Gòn sống lang thang nhưng không dám về nhà. Cuộc sống chui nhủi trong góc chợ đầu cầu, Cường trở thành con người phẫn hận, tàn đời...Hàng trăm ngàn thanh niên đang bị như thế tại Việt Nam, anh có dịp tự làm ''thám tử tư'' chụp được vài tấm hình của những thanh niên bị cải tạo lao động nầy. Bởi thế, người người phải im lặng, nhà nhà phải im lặng. Quyền lực trực tiếp của Ðảng là tên công an khu vực, tổ trưởng dân phố, tổ phó an ninh.
Anh trốn ra ngoài để nói lên thực trạng nầy, nhưng gặp một số người Việt Nam ở hải ngoại, trong đó có Thúc cho rằng tranh đấu là trò hề, là kiếm lợi, là làm anh hùng lấy tiếng, là gây rối... Người ta được ăn ngon mặc đẹp, có chút tiền dư gởi về quê cho bà con là đã lấy làm ''cao cả'' lắm rồi. Người ta mua vé về Việt Nam làm Việt Kiều thăm đất nước với chút ít đô la rủng rỉnh trong túi là được bọn công an chìm khoanh tay nịnh bợ. Mới chừng đó, người ta đã cảm thấy thỏa mãn cái thị dục huyễn ngã vốn bị chà đạp ngày xưa. Trịnh Công Sơn viết trong Ca Khúc Da Vàng một bài hát có câu nầy: Người Việt thấy tương lai rất gần. Vâng một số người nghệ sỹ có sự bén nhạy của nhà tiên tri. Tiếc thay, trong chế độ cộng sản, miệng họ bị đeo cái hàm thiếc, mắt họ bị bịt bằng luật rừng. Người nghệ sỹ trong chế độ cộng sản chỉ được sáng tác trong một cái khuôn. Giống như con ngựa bị bịt mắt, phải chạy theo đường của chủ. Khi cầm bút, cái cổ tay của nhà văn, nhà thơ luôn luôn tự động kiểm duyệt. Nếu sơ hở để cho lương tâm công khai bày tỏ trên văn chương chữ nghĩa thì phải nhớ tới mấy chục tấm gương Phù Thăng, Phùng Quán, Trần Dần, Nguyễn Chí Thiện, Dương Thu Hương, Nguyễn Văn Trấn, Nguyễn Hộ, Nguyễn Thanh Giang, Tiêu Giao Bảo Cự, Ðỗ trung Hiếu...Còn không thì phải tráo trở hết mình theo kiểu rắn giả lươn như Trần Mạnh Hảo.
Dù CSVN đã đẩy dân ta vào đường cùng và đã tiêu diệt tiềm năng văn hóa đạo đức dân tộc ta đến mức thê thảm, nhưng sức mạnh của một dân tộc không chỉ ở nơi lớp người hôm nay đang khiếp nhược, không chỉ ở nơi lớp người hôm nay chỉ buông bình ăn no mặc sướng khắp năm châu, nhưng sức mạnh ấy còn tiềm ẩn trong từng giọt máu Lạc Hồng chờ đợi một thời điểm trổ hoa đơm trái. Dân Do Thái lưu lạc cả ngàn năm vẫn không nao sờn sinh lực, trái lại được trui rèn để được vững chắc thêm. Trong giòng máu Lạc Hồng, anh tin chắc rằng đã, đang và sẽ có những hạt giống tinh hoa. Họ sẽ bất ngờ làm những điều kỳ diệu để giải thoát dân tộc ra khỏi ách CS, để tái lập lại Việt Nam. Ðây là điều khao khát sâu xa trong lòng dân. Vua Bảo Ðại không phải là một nhân tài xuất thế, nhưng ông cũng đã nêu lên một câu thiết cốt để đời: Ý dân là ý Trời. Ðã một thế kỷ cang qua loạn lạc, thế mà chúng ta, những kẻ còn sống sót vẫn chưa học được bài học ý dân là ý trời. Nhìn lại lịch sử mở mang bờ cõi, tổ tiên chúng ta cũng đã từng gây họa cho dân tộc khác. Lỗi lầm của tổ tiên vẫn bị cân vào chỗ hậu quả của cháu con. Ngày nay nếu con cháu mà biết ăn năn về lầm lỗi của tiền nhân vẫn là có phước. Vận nước đem đến cho chúng ta sự trui rèn, tôi luyện; những đau khổ nầy là bài học muôn đời. Sông có khúc người có lúc. Nước có tuần, dân có vận. Lịch sử một dân tộc có khi thịnh khi suy. Kẻ ác cũng có lúc nhởn nhơ, nhưng rồi lụi tàn trong nhấp nháy. Nửa thế kỷ trong chiều dài lịch sử của một dân tộc chưa phải quá dài. Nhà thơ tiên Bùi Giáng đã nói:
Én đầu xuân, tuyết đầu đông
Rừng cô tịch ngóng nội đồng trổ hoa.
Ai biết suy gẫm hai câu thơ trên sẽ thấy tại sao Bùi Giáng suốt đời sống như một kẻ bơ vơ đầu đường xó chợ. Ông sống như thế mới lọt vào truông ngàn để cảm nhận ước vọng sâu xa của rừng cô tịch. Một sự đợi chờ trầm lặng cái thời điểm nụ hoa trổ giữa nội đồng. Rừng cô tịch và nội đồng là gì? Anh ao ước em biết động lòng với câu hỏi đó. Ðộng lòng chứ không chỉ động não. Không nhất thiết phải là người thông minh xuất chúng, nhưng ai mặc lấy linh hồn tổ tiên Việt Nam trong giòng máu ắt sẽ hiểu thấu Rừng Cô Tịch và nội đồng trong hai câu thơ Bùi Giáng. Khi Bùi Giáng còn sống, không mấy ai binh vực giúp đỡ, ngày nay Bùi Giáng đã ra đi, nhiều người viết sách ca tụng Bùi Giáng như Phật như Chúa, như Bồ Tát, Khổng Tử, Lão Trang... Họ viết bằng một lối văn ''cao siêu bí hiểm'' như chính họ đã được Bùi Giáng nhập vào. Hiện nay nhiều người đang viết về Bùi Giáng, nhưng anh chỉ mới đọc được hai người thật sự yêu mến, kính trọng Bùi Giáng với lòng thành thật, đó là Nam Chữ và Trần Ðới.
Trở lại với vấn đề tội ác cộng sản, Thúc viết rằng Họ đã nhầm giết hại cả triệu người trong luật cải cách 56. Tại miền bắc, theo anh nghĩ là không đúng. Họ không hề giết nhầm, và cũng không phải giết tới cả triệu người. Viết như thế là chứng tỏ Thúc vừa nghĩ sai vừa thổi phồng và không tôn trọng sự thật. Cuộc cải cách ruộng đất năm 1956 tại miền Bắc, tuy đầy sắt máu, phi nhân phi nghĩa, nhưng không có đủ cả triệu người địa chủ và nhà giàu cho Hồ Chí Minh giết. Tuy nhiên cuộc cải cách ruộng đất đã dẫn đến hậu quả đau thương lâu dài cho nhiều triệu người. Khi chống tội ác cộng sản, chúng ta không nên nói sai sự thật. Vì bản chất Cộng Sản thích nói dối, thích vu khống, thích ném đá dấu tay. Chúng ta nói sai sự thật lâu ngày sẽ trở nên giống họ. Trừ các bí mật quân sự, chính trị ra; những tin tức khác phải được nói đúng sự thật thì Cộng Sản mới sợ. Vì sao? Cộng Sản thừa biết rằng chúng là tổ sư nói láo. Nhưng ngược lại chúng rất sợ sự thật. Nên nhớ rằng kẻ nói dối luôn luôn sợ sự thật.
Trước 75 đối lập với chế độ Sgòn, chống Mỹ chống chế độ, ngã theo V.C theo phản chiến. Sau 75 ăn ở, ngủ ngáy lập gia đình với V.C rồi sinh con đẻ cái, chắc bây giờ sau 20 nằm chung chăn giờ mới phát hiện có ''rận''. Quân đội Sgon trước 75 anh cho họ là một lũ đánh thuê bây giờ lại dở giọng ''Bán máu dân lành cho mốt cu''. Bắc bộ phủ không phải là một lũ đánh thuê? Hãy nghe. ''Nhận chỉ thị của Ðệ tam quốc tế cọng sản, Hồ quỉ tặc tiến hành thôn tính miền nam, và đông dương rồi từ từ nhuộm đỏ Ðông nam á châu'' phải, họ không là đánh thuê. họ chính nghĩa giải phóng Dân tộc. Thư trước anh có nhắc rằng anh chưa gặp một người Việt quốc gia nào biết được thâm độc của cộng sản. Ðúng có ai biết đâu? Ăn ở với họ, làm tình với họ rồi mới biết thôi nhưng có một đìều họ sợ cộng sản lắm. Có những gia đình đã 4 đời chạy giặc từ 54 đến 75. Như gia đình nhạc sĩ họ Phạm là một điễn hình.
Thúc cho rằng trước 1975 anh đối lập chống Mỹ chống chế độ, ngã theo V.C theo phản chiến là sai. Nếu cho rằng phản chiến là theo Việt Cộng, có nghĩa là Việt Cộng không muốn chiến tranh (phản chiến); còn VNCH thì không phản chiến (tức là chủ trương chiến tranh) sao? Tại sao Thúc có một kiến thức chính trị lạ thế? Coi chừng Thúc bị tâm thần rồi đó! Trước 1975 anh không chống chế độ miền Nam mà chỉ chống sự bất công, sai lầm của những chính phủ trong chế độ miền Nam. Anh chống những chính phủ kỳ thị tôn giáo. Trong khi hô hào toàn dân chống cộng thì giới chóp bu chính trị chỉ biết bám vào Mỹ để chống cộng, chứ không bám vào dân, không xây dựng trong dân một sự nhận thức rõ rệt về cuộc chiến ý thức hệ hay là nội chiến huynh đệ tương tàn. Các chính phủ miền nam Việt Nam đã không có chính sách bình đẳng tôn giáo, mặc dầu có tự do tín ngưỡng rõ ràng chứ không phải quốc doanh tôn giáo như miền bắc Việt Nam. Nhưng một vài chính phủ miền Nam lại thiên vị đối với những tôn giáo khác nhau; đặc biệt là với Phật Giáo, và Phật Giáo Hòa Hảo. Mãi đến 1963 Việt Nam Cộng Hòa vẫn áp dụng đạo dụ số 10/59 của thực dân Pháp đối với Phật Giáo, một tôn giáo đã đậm nét truyền thống dân tộc hơn cả ngàn năm. (Nên xem lại bộ luật của miền Nam coi điểm nầy là đúng hay sai. Anh nhớ rằng một tài liệu đấu tranh của PG năm 1963 đã kêu gọi hủy bỏ Ðạo Dụ Số 10/59). Ngoài ra những ông thủ lãnh quốc gia nặng đầu óc bè phái cục bộ để tranh chấp quyền lợi phe nhóm hơn là xây dựng tình đoàn kết toàn dân. Người Mỹ đã ngán ngẩm đối với một đồng minh chống cộng như các chính phủ VNCH.
Dù sao thì bản chất của chế độ miền Nam là có tự do và chính nghĩa. Vì bản chất tự do và chính nghĩa của miền Nam, người dân được nhiều cơ hội bày tỏ thái độ bất mãn của mình. Chỉ đáng tiếc là phần nhiều những nhà trí thức, lãnh đạo chưa thấy hết sự lạm dụng tính dân chủ tự do của chế độ miền Nam. Các chính phủ miền Nam đã bất lực trong vai trò điều khiển quốc gia của mình, vô tình tạo kẻ hở cho bọn cộng sản miền Bắc len lỏi vào đục nước thả câu... Trong khi đó tại miền Bắc, dù bản chất chế độ CS là ngụy dân chủ và phi nghĩa, nhưng họ đã rêu rao chính nghĩa và phô trương vẽ vời nhằm mục đích lừa bịp dưa dân chúng vào một cuộc chiến gọi là: Chống Mỹ cứu nước, độc lập dân tộc, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Bây giờ xem kỹ lại chúng ta thấy Chế độ miền Nam có chính nghĩa dân tộc, nhưng đã tự làm lu mờ chính nghĩa đó, trong khi chế độ miền Bắc phi nghĩa, bịp bợm lại vẽ được một hình ảnh chính nghĩa hẳn hoi. Dù đó là những khẩu hiệu láo khoét, nhưng họ đã dồn hết sức lực tuyên truyền cho đến ngày 30.4.1975 mới dần dần bị lòi mặt nạ từ bắc chí nam!
Cộng Sản có tài lộng giả thành chân, trong khi chế độ Quốc Gia miền nam hô hào chống cộng, nhưng không có một chương trình gây ý thức về lập trường chính trị và chính nghĩa quốc gia trong dân chúng. Sau nầy, khi Cộng Sản thôn tính toàn đất nước, người ta mới thấy rành rành rằng miền Bắc đấu tranh cho ý thức hệ cộng sản dưới cái mặt nạ giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Còn miền Nam thì tỏ ra ''quân tử tàu'', dù có chính nghĩa nhưng đã vô tình tự làm cho mình mang tiếng là chiến đấu cho Mỹ hơn là sử dụng sức mạnh viện trợ của Mỹ để chiến thắng một cuộc chiến ý thức hệ mà Mỹ là đồng minh quan trọng và cần thiết nhất. Ðến khi người Mỹ không tin tưởng nổi một đồng minh tài tử chỉ biết chia rẽ, ích kỷ cá nhân; họ phải rút lui. Còn chúng ta bỏ chạy qua Mỹ để vừa tiếp tục nhờ cậy Mỹ, hưởng tự do tại Mỹ và chỉ trích Mỹ về thái độ của họ đã không chịu tiếp tục hy sinh tài sản và mạng sống của con em họ cho mình được tranh giành phân rẽ nhau!
Ðã tròn một phần tư thế kỷ thất bại, sống lưu vong mà vẫn còn rải rác những nhân vật chính trị miền Nam chưa có khả năng nhận thức những sai lầm của mình để thay đổi cách suy nghĩ. Ngày nay nếu ai chê chúng ta, chúng ta sẵn sàng đấm vào mặt họ cho bỏ ghét. Trước đây tại miền Nam, tổng thống Ngô Ðình Diệm tuy là người được tiếng có tinh thần thanh liêm và chống cộng, nhưng lại tự làm cho mình bị mang tiếng là kỳ thị tôn giáo một cách tai hại. Thời tổng thống Ngô Ðình Diệm, hồi anh còn nhỏ nhưng đã nghe người ta nói chủ nghĩa Cộng Sản là chủ nghĩa tam-vô (vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo). Ðây là một từ ngữ rất chính xác để chỉ chế độ Cộng Sản. Thế mà chính phủ của tổng thống Ngô Ðình Diệm không khai thác ý nghĩa sâu sắc và thực tế đó trong toàn dân. Trái lại họ đã nghi ngờ rằng người nào không phải Công Giáo thì có thể là Việt Cộng! Tổng thống Diệm đã đầu tư vào sự kềm kẹp những người chống cộng như Phật giáo Hòa Hảo, và hội Phật Học Việt Nam, thay vì xây dựng tình đoàn kết với các tôn giáo ấy để đẩy lui hiểm họa Cộng Sản cho cả dân tộc. Một cây cổ thụ chống Cộng Sản như nhà văn Nhất Linh mà cũng không sống nổi trong chế độ miền Nam của tổng thống Diệm. Tổng thống Ngô Ðình Diệm không hiểu hết những gian trá của Hồ Chí Minh như nhà văn Nguyễn Tường Tam, nhưng ông đã loại bỏ những con người yêu nước chống cộng như Nguyễn Tường Tam. Tổng thống Ngô Ðình Diệm giao mọi quyền bính trong tay anh em ruột của mình, là những người bao thầu ý thức chống cộng trong hàng ngũ Công Giáo thiểu số của miền Nam, và dựa vào số người Công Giáo di cư chống cộng mà thôi. Tổng thống Ngô Ðình Diệm có một người anh ruột làm Tổng Giám Mục (về sau bị giáo hội treo chén), một người em ruột và em dâu lộng hành quyền thế, ăn nói hỗn xược với công chúng, một người em ruột làm trùm mật vụ ở miền Trung đã gây ra không biết bao nhiêu oan nghiệt cho các chùa chiền. Chừng đó không đủ cho dân chúng bất mãn, không đủ để đánh mất lòng tin của dân, không đủ cho CS khai thác sao? Ðành rằng Tổng Thống Ngô Ðình Diệm thanh liêm, không tham nhũng, nhưng hãy xem lại việc ông điều khiển đất nước như thế nào? Ðó là một khuyết điểm tai hại mà chúng ta phải học để tránh, chứ không phải nhắc lại để đả kích nhau và vô tình tiếp tục làm lợi cho Cộng Sản. Bao lâu chúng ta còn che giấu cái dở của mình, bấy lâu mình con thua chính mình và thua kẻ địch. Tuy nhiên tổng thống Ngô Ðình Diệm vẫn được xem là nhân vật chống cộng sáng chói nhất của chế độ VNCH. Anh rất mong các nhà trí thức và chính trị chuyên môn chứng minh những điểm sáng chói của tổng thống Ngô Ðình Diệm để nhân vật lịch sử nầy khỏi bị hiểu lầm. Nhưng điều anh nhận xét vẫn được căn cứ vào những gì mà anh thấy và biết. Anh không bao giờ cho rằng điều mình suy nghĩ là điều duy nhất đúng. Hãy tích cực phát biểu và biết lắng nghe nhau thì vấn đề mới được sáng tỏ. Vấn đề là những sự kiện lịch sử khách quan không nên bị hiểu một cách lệch lạc bởi tình cảm, tính bè phái đối với một vài nhân vật lịch sử. Trên thực tế, những sai lầm của miền Nam đã đẩy tình cảm của người dân đến gần với hệ thống chính trị miền Bắc. Người dân càng chán ngán chế độ chính trị miền Nam càng hy vọng ở miền Bắc có cái gì tốt đẹp hơn phía sau bức tranh chống Pháp của Hồ Chí Minh.
Anh không hiểu được vai trò thật sự của tướng Dương Văn Minh trong cuộc đảo chánh 1.11.1963. Anh cũng chưa hiểu gì về vai trò của Mỹ trong cuộc đảo chánh nầy. Hồi đó cũng như bây giờ, anh thật là một người đơn sơ về những thông tin chính trị. Từ lâu, anh cũng chỉ hiểu một cách nôm na rằng Phật Giáo hồi đó chỉ mong chính phủ Ngô Ðình Diệm thi hành chính sách đối xử bình đẳng tôn giáo. Cộng Sản thì muốn lợi dụng sự bất mãn trong giới Phật Giáo để làm xáo trộn cả miền Nam. Nhiều người Phật tử chân chính vẫn chống cộng triệt để. Nhưng cũng có nhiều người Phật tử chân chính đã bị đẩy đi xa vào hàng ngũ thân cộng, hoặc trở thành cộng sản thật sự. Cộng Sản Bắc Việt thèm khát những chính phủ miền nam kỳ thị tôn giáo, chia rẽ dân tộc. Họ đã thỏa mãn! Dương Văn Minh từ một người hùng lật đổ ''nhà độc tài'' Ngô Ðình Diệm lại mau chóng trở thành người bù nhìn ở giữa các phe quân đội miền Nam và các nhà tu Phật Giáo không mấy hiểu biết về chính trị nhưng đầy tham vọng và kiêu căng; chưa nói đến sự việc họ bị bàn tay Cộng Sản lèo lái. Những phe nầy đều không ý thức rõ về hiểm họa cộng sản đối với dân tộc, mà chỉ chăm chú vào quyền lợi phe nhóm cục bộ và quyền lợi một số cá nhân.
Từ 1.11.1963 đến giữa năm 1967, trong tình hình hỗn mang ấy, miền Nam phải trải qua biết bao cuộc chỉnh lý, tranh chấp làm phân rẽ manh mún tiềm lực của quân và dân. Nguyễn Khánh mang bộ râu ra biểu diễn chính trị với bù nhìn Dương Văn Minh, rồi đến Phan Huy Quát, Trần Văn Hương nối tiếp nhau lên lãnh đạo một cách vá víu tạm thời, không ai nêu lên được một chính sách, một đường lối lâu dài cho Miền Nam. Trong khi Vũ Ngọc Nhạ đã được Việt cộng cài sâu vào dinh Ðộc Lập! Khi tướng Nguyễn Cao Kỳ đứng đầu Uỷ Ban Hành Pháp Quốc Gia, ông Kỳ và ông Thiệu đi từ ngấm ngầm đến công khai ganh tỵ, tranh quyền và ruồng rẫy nhau như sừng với đuôi. Cả hai ông tướng nầy vừa nương nhau để giữ được cái ghế ăn nhờ Mỹ vừa chia rẽ nhau cho đến ngày rách nát quê nhà. Thử hỏi sự cắn xé giữa tổng thống Thiệu và phó tổng thống Kỳ đã làm vui lòng cho Bắc Việt tới cỡ nào! Họ cũng mang tiếng buôn lậu, cũng tham ô rồi bỏ dân mà chạy trước. Trong khi đó các chiến sỹ mình đã phải hy sinh hằng triệu người dưới tay của họ. Ông Thiệu tạo thêm sự phân rẽ vốn đã sâu sắc trong hàng ngũ Phật Giáo bằng sắc luật 23/67 để đánh gục con sư tử tôn giáo chuyên môn tự thiêu tuyệt thực chống các chính quyền miền Nam một cách quá trớn.
Hồi đó nếu ai nói rằng có bàn tay Cộng Sản đạo diễn trong hàng ngũ Phật Giáo thì bị nhiều người chống đối. Thế nhưng sau 30.4.1975, chúng ta mới thấy chẳng những Cộng Sản đã nhúng tay vào tổ chức Phật Giáo mà chúng còn vào ăn ngủ tận trong dinh Ðộc Lập! Ở trong dinh Ðộc Lập, Vũ Ngọc Nhạ đã làm được những gì thì anh không hình dung nỗi, nhưng chắc chắn là đủ cho Cộng Sản biết hết mọi bí mật quốc gia. Còn bên Phật Giáo, sau 30.4.75, anh mới biết Hòa Thượng T.Q, và nhiều vị tu sỹ khác đã làm việc theo Việt Cộng tới cỡ nào. Ðến nay H.T T. Q vẫn quay lưng đối với các vị cao tăng khác đang chịu sự tù đày, và hàng triệu đồng bào Phật tử bị bắt bớ bạc đãi dưới chế độ CS. Những người đệ tử thân tín của H.T T.Q như anh Nguyễn Khắc Từ, một người Phật tử rất có lương tâm đã bị Cộng Sản bỏ tù đến mù mắt mới được cho về nhà để chết phía sau đại học Vạn Hạnh. Cái tội của anh Nguyễn Khắc Từ là muốn Gia Ðình Phật Tử được sinh hoạt trở lại như lời ông Lê Duẩn đã hứa với H.T Trí Thủ khi ông ta cần Hòa Thượng Trí Thủ vận động thành lập Giáo Hội Phật Giáo Quốc Doanh. Khi Hòa Thượng Trí Thủ biết mình đã bị Lê Duẩn lường gạt, Người đã tức đến vỡ tim mà chết. Tiếp theo là một cái chết giống như thế của Hòa Thượng Thanh Trí sau đó 8 ngày. Thế nhưng H.T T.Q vẫn ''im lặng như chánh pháp'' cho đến bây giờ.
Bây giờ vẫn có những người tiếc thương thời kỳ ''vàng son'' của Ngô chính phủ và một cá nhân tổng thống Ngô Ðình Diệm nên phải binh vực, bảo vệ uy tín nhân vật lịch sử nầy cho bằng được. Ngược lại thì có nhiều Phật tử không dám nói thẳng ra rằng thầy mình đã theo CS và đã đưa mình vào những cuộc tham gia biểu tình phá rối miền Nam theo sự lèo lái của CS. Anh nghĩ rằng Trời cho cháy nhà để lòi ra mặt chuột. Nếu không cháy nhà, không làm sao thấy được chuột, và trọn đời chuột cứ gặm nhấm cái danh nghĩa dân tộc một cách oan uổng trong bóng tối cục bộ tôn giáo, phe phái hẹp hòi ! Những con chuột đỏ rất tinh ranh núp trong những con chuột bạch để lai giống những con chuột bạch thành chuột vá. Dần dần chúng ăn thịt luôn cả chuột bạch, chuột vá, và biết nhuộm lông thành những con chuột đen như chuột Lê Khắc Từ núp trong đống rác Saigon. Chuột Bạch là những nhà yêu nước chân chính đã hợp tác với Việt Minh trong giai đoạn chống Pháp. Giai đoạn Hồ Chí Minh nằm trong mặt trận Việt Minh, ông vẫn giữ được phong cách một người yêu nước gần gũi dân tộc, nhưng đó là một thủ đoạn trá hình siêu đẳng. Có hai con chuột áo vàng nằm trong MTGPMN là hai Hòa Thượng đỏ Thích Thiện Hào và thích Minh Nguyệt. Sau nầy người ta mới biết hai vị đại lão hòa thượng nầy là đảng viên đảng CSVN. Họ có con, dâu rể đùm đống đầy đàn. Anh gặp các con dâu rễ của các vị ''hòa thượng'' ấy mà thấy hỡi ôi. Cộng Sản đã mặc áo cà sa cho đảng viên lên lãnh đạo tôn giáo. Chuột đỏ đốm vàng là Việt Minh mà thực chất là Cộng Sản chính cống, nhưng che giấu răng nanh cộng sản trong cái mồm của chuột Việt Minh.
Khi cai trị miền Bắc qua chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, con chuột đỏ đốm vàng vẫn làm bộ hóa trang như có lai chuột vá. Nó tự đặt tên nó là Ðảng Lao Ðộng Việt Nam. Chuột vá là những con chuột bạch lai với Việt Minh, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, và những người đứng hàng hai trung lập, "lực lượng thứ ba" vô hình. Màu lông của chuột vá vô cùng phức tạp. Có con vừa trắng vừa đen. Có con vừa vàng vừa đỏ. Có con vàng, đỏ, đen, xanh lá cây. Có con nâu nâu, xám xám. Có con áo trắng quần xanh. Có con áo dài trinh bạch nữ sinh vô tội. Có con mặc nguyên bộ đồ nhà binh ủi hồ và đeo bông mai. Có con chân lấm tay bùn, cũng có con làm dân biểu, nghị sỹ, giáo sư, bác sỹ và cả thợ điện, thợ hồ, áo cà sa, áo dòng... Thật ra những con chuột lai chính cống nầy đều bị những con chuột lai trá hình điều khiển tất. Ðến khi chuột đỏ đốm vàng đã ăn thịt những con chuột bạch; kềm kẹp, sập bẩy hết những con chuột vá, chuột lai, nó bèn xuất đầu lộ diện thành chuột đen, chuột đỏ nhà nòi và tự xưng minh là Ðảng Cộng Sản Việt Nam (1976). Chuột đen, chuột đỏ đốm vàng nhà nòi lấy máu của chuột bạch, chuột vá và chuột nạn nhân nó để nhuộm thành chuột Xã Hội Chủ Nghĩa. Một loại chuột đã bị lòi mặt nạ mà ngày nay nhà cháy rồi thì ai ai cũng thấy nó. Vì bị lòi mặt nạ, lũ chuột đen sơn lông đỏ đang đưa một loại chuột trắc nghiệm tâm lý quần chúng hải ngoại, đó là chuột Trần Văn Trường treo cờ máu và ảnh họ Hồ. Ngày nay có rất nhiều con chuột vá đã nhận ra sự sai lầm lộn giống nầy. Chúng ta hãy giúp các con chuột vá lấy lại bộ lông chuột bạch. Nhiều con chuột bạch dù đã bị chuột đen làm lem lấm bộ lông, nhưng vẫn còn giữ cái gen rất mạnh. Chuột bạch đang chiến đấu lấy lại nòi giống của mình, và đang kéo lũ chuột vá nạn nhân trong hàng ngũ chuột bạch trở về. Nên nhớ giống chuột bạch là giống quý. Nó sạch sẽ và không ăn hại, tuy có mang tiếng lè phè ham chơi, nhưng khi sống thì nó hiền từ, khi bị đi lưu lạc thì nó gởi thực phẩm về nuôi dân nghèo của nó. Chỉ vì cái tánh hiền hòa, ham nhảy múa cầu thang, ham leo trèo bong bóng nên nó bị chuột đỏ đốm vàng lường gạt. Tại các nước cộng sản cũ, CSVN đang gởi ra hàng ngàn con chuột hôi làm công tác kiều vận, phản gián, buôn lậu, trộm cướp, giết người, làm mô giới buôn bán giấy tờ giả do các văn phòng đại sứ Việt Cộng cung cấp, chúng đang lọt sâu vào cộng đồng, tôn giáo.
Cộng Sản chiến thắng bằng ý chí sắt máu, bằng sự biển lận trà trộn trong tinh thần chống thực dân Pháp, trà trộn trong hàng ngũ trí thức, tôn giáo, dân lao động, dân quê dưới danh nghĩa độc lập dân tộc thống nhất đất nước. Chúng bám sâu vào mọi tầng lớp nhân dân. Cộng Sản đã thật sự bán máu dân lành cho Mốt-Cu để lấy vũ khí về sát hại dân Việt Nam nhằm xây dựng địa vị Sộng Sản quốc tế cho Hồ chí Minh. Tiếc thay khi anh nói rằng Cộng Sản đã bán máu dân lành cho Mốt-Cu thì Thúc cho rằng anh dở giọng! Trình độ chính trị và lòng yêu nước của một cựu sỹ quan QLVNCH như Thúc đã làm cho anh hiểu rõ tại sao CSVN gian ác mà lại chiến thắng ! Càng thương tiếc hàng triệu chiến sỹ trong quân lực VNCH đã anh dũng hy sinh, chúng ta càng phải ăn năn thống hối vì đã dung dưỡng biết bao nhiêu sự vô tình và cố ý phá thối trong các chính phủ và tổ chức tôn giáo ở miền Nam.
Ngày nay, sau 25 năm chấm dứt chiến tranh, máu và nước mắt của dân Việt Nam vẫn còn chảy trong nước Nga và các nước cộng sản cũ. Thúc không thể hình dung được người Việt chúng ta đang đau khổ, hỗn mang như thế nào trong hệ thống mafia xuất cảng lao động của CSVN. Chẳng có ai yêu nước mà không cảm thấy đau lòng khi máu và nước mắt của đồng bào mình bị đem bán rẻ để trả nợ chiến tranh. Hiện nay hàng trăm ngàn người Việt ở bên Nga đang chịu sự kềm kẹp tủi nhục giữa hai gọng kềm mafia Nga và mafia Cộng Sản Hà Nội. Người Việt Ðông Âu chết tức tưởi dưới nhiều hình thức trong các nước cộng sản cũ mà ít được ai lên tiếng. Các văn phòng đại sứ Việt Cộng tại các nước nầy lo buôn lậu chứ chẳng hề quan tâm đến đồng bào mình. Riêng tại nước Ðức cũng đã có tới 40.000 người Việt bán sức lao động bất chính cho mafia cộng sản. Họ đang dở sống dở chết. Bị về nước cũng thất cơ lỡ vận, xin tỵ nạn thì không đủ tiêu chuẩn để được xem là nạn nhân chính trị. Họ là những người cộng sản trở thành nạn nhân của Cộng Sản mà hiện nay chính phủ Việt Cộng đang sàng qua sớt lại với chính phủ cộng Hòa Liên Bang Ðức bằng một hiệp ước ký từ tháng 7, năm 1995. Hầu hết những thành phần người Việt Ðông Âu nầy vừa là nạn nhân vừa là tội phạm hình sự trong guồng máy mafia CSVN mà anh đã đề cập chút ít ở các chương trước.
Anh nhớ năm 1979, bộ trưởng ngoại giao nước Anh đã đòi gông cổ đảng Cộng Sản Việt Nam trong khi ông sang thăm những thuyền nhân Việt Nam ở Hongkong. Nếu thế giới biết rõ âm mưu buôn bán con người, âm mưu đem dân bỏ chợ của loài quỷ đỏ CSVN, thế giới cũng phải gông đầu cái ác đảng cộng nô hiện nay của Lê Khả Phiêu mới đúng. Tuy nhiên, ba triệu người Việt Nam hải ngoại của chúng ta chưa thật sự đoàn kết để học bài học lịch sử, chưa thật sự bày tỏ tinh thần yêu hòa bình, yêu chính nghĩa tự do để chứng tỏ cho thế giới thấy rõ nỗi oan khiên của chúng ta. Anh nghĩ cả thế giới đều biết rõ sự gian ác của đảng CSVN, nhưng chưa ai thấy những người Việt Nam chống cộng làm nên một biến cố gì đáng cho họ nể phục, do đó chẳng ai bận tâm chống cộng dùm cho mình đâu. Muốn được thế giới ủng hộ, chúng ta phải tỏ ra có khả năng, có tinh thần và thái độ bày tỏ chính nghĩa hòa bình sáng suốt của mình. Trên thực tế hiện nay, chúng ta đang cấu xé nhau một cách buồn cười đến nổi thế hệ trẻ cũng đang ngơ ngác không biết các bậc tiền nhân của họ đang cất dấu ''chính nghĩa yêu nước'' ở trong túi quần nào. Họ chỉ thấy chúng ta đua nhau lặp đi lặp lại chống cộng bằng võ mồm. Thật ra tuổi trẻ Việt Nam hải ngoại đang là một tiềm lực thâm hậu nếu được động viên đúng hướng. Ba triệu dân đã lọt ra nước ngoài để lo kiếm tiền hưởng thụ, những người thật sự kêu gào phục hưng đất nước vẫn còn rất cô đơn. Anh tự hỏi tại sao các bậc lãnh đạo tôn giáo, các nhà chính trị VNCH đã 25 năm rồi mà chưa ngồi lại cùng nhau học bài học lịch sử để nhận phần trách nhiệm của mình? Vì không hiểu sâu về chính trị, anh chỉ thắc mắc vậy thôi, nhưng anh tin rằng chính nghĩa phải có cơ hội chiến thắng.
Trời có con mắt, chỉ tiếc là con người không muốn nhìn theo ngón tay chỉ bảo của Trời, do đó ma quỷ được cớ thắng thế để người ''lương thiện'' phải tiếp tục học bài học thất bại của mình. Nếu ''chính nghĩa'' mà không chiến thắng tà đạo, ''chính nghĩa'' mà không có gì để làm rạng rỡ giống nòi; thì đương nhiên tà đạo được chiến thắng và có cớ để tự khen mình tài ba gian lận của nó. Những người cô thế không biết dựa vào ai thì phải tự nhủ rằng ''gió chiều nào che chiều ấy'', ''tránh voi không xấu mặt nào'', ''ăn có thuở, ở có thời''...