Thúc viết:
Nhóm giao điểm không liên quan gì đến tôi, có một vài tờ báo cảnh cáo họ nên học lại ESL. Bây giờ anh nên cho họ một bài vở lòng pháp ngữ của tiếng mẹ đẻ. Một lũ mang danh nầy nọ tiến sĩ, bác sĩ mà biết ''chữ'' không biết ''nghĩa''. Trên diễn đàn cảm thấy gai mắt, ngứa tai thì cứ bút ''chiến'' với họ. Tôi không có thì giờ đừng xúi dại tôi ông ơi; chuyện đó đâu cần phải đụng tới rồi mới bút chiến. Cảm thấy họ, một lũ ngáo mà lên mặt dạy đời thì lăn vào chơi nhau lở u đầu chảy máu tính sau. Có sao đâu!
Ý kiến của anh:
Việc anh tặng một bài thơ cho anh em Giao Ðiểm chỉ là một thái độ văn nghệ lẻ tẻ mà thôi, chưa có gì là bút chiến hay đối thoại cả. Nhưng vì anh đã đề tặng nhóm Giao Ðiểm một bài thơ, Thúc đã nhắc anh trong thư trước về các ''lỗi lầm'' của Ðức Giáo Hoàng và Giáo Hội Công Giáo La Mã. Giọng văn của em rất giống giọng văn của họ. Do đó anh sợ rằng em chỉ hiểu một chiều. Vì vậy anh viết thêm cho em vài câu rất tóm tắt về nhận xét của anh đối với quyển sách ÐTVÐGH. Anh viết: chuyện còn dài. Khi gặp nhau, anh em mình sẽ nói cụ thể hơn. Nói có sách mách có chứng. Anh không dùng chữ một lũ để gọi nhóm ấy như Thúc đã làm. Anh chỉ nói ngắn gọn, tổng quát là lý lẽ của họ hồ đồ, làm hại cho Phật Giáo hơn là binh vực... Không bao giờ có một tôn giáo nào được xem là cao siêu nhờ các nhà ''hùng biện'' hàm hồ như thế. Ðối với Chúa, với Kinh Thánh và với Ðức Giáo Hoàng mà họ mạt sát, xuyên tạc thẳng thừng, vậy cá nhân anh có đáng gì đâu mà nói tới bút chiến với họ! Dù gì anh cũng muốn giữ tình đoàn kết đồng tộc, đồng loại hơn là tranh chấp nhau để rồi cứ phân rẽ nhau. Anh luôn ghi nhớ câu Một sự nhịn chín sự lành và không hề xúi dại Thúc bút chiến với họ. Anh quý trọng sự ôn hòa trong hàng ngũ dân tộc Việt Nam lắm. Cộng Sản kềm kẹp anh, anh không buồn bằng sự việc chúng xúi những người ruột thịt trong gia đình anh gây ra nồi da xáo thịt. Ðối với anh, tình ruột thịt là rất quý, nhưng quý hơn cả tình ruột thịt, tình đồng bào, đồng loại, là Tình Yêu Thiên Chúa.
Tình Yêu Thiên Chúa chữa được những vết thương trong tâm hồn, giúp mình biết tha thứ, khiến lòng mình xu hướng về điều lành hơn là điều dữ. Tình Yêu Thiên Chúa là tình yêu siêu thoát, là nguồn cội, là tiêu chuẩn cho tất cả mọi thứ tình yêu chân chính khác trên cõi đời nầy. Nương tựa vào tình yêu Thiên Chúa, mình thoát khỏi những thù oán của trần gian và còn làm cho các tình yêu chân chính khác được thăng hoa. Khi nhận được tình yêu Thiên Chúa, con người anh trở nên chân thật hơn trong mối liên hệ với thiên nhiên và nhân loại. Tình yêu Thiên Chúa giải thoát anh ra khỏi những mê tín dị đoan, những gánh nặng văn hóa, tri thức, truyền thống trần gian tạm bợ rườm rà, dù đó là những truyền thống đã mấy ngàn năm. Ðối với chân lý vĩnh hằng, truyền thống mấy ngàn năm cũng chỉ là phù du thôi. Anh tin rằng ngoài Tình Yêu Thiên Chúa ra, tất cả các tình yêu khác đều là vô thường, vọng động; Phật Giáo gọi là ái nghiệp. Nhưng ngoài ái nghiệp ra còn có tình yêu vĩnh cửu. Vì sao? Vì ái nghiệp là tình yêu phàm trần, khác với tình yêu của Ðấng Vĩnh Hằng. Tình yêu con người thì vô thường, nay thế nầy, mai thế khác. Nhưng anh tin rằng tình yêu Thiên Chúa là hằng hữu. Tình yêu Thiên Chúa đã giúp anh thấy rõ tội ác của Cộng Sản, những sai lầm của miền Nam, cũng như tội lỗi của bản thân mình để ăn năn, để được tha thứ, được giải phóng ra khỏi những ràng buộc hư hoại để mà vươn tới sự tốt đẹp hơn, dù tuổi đời mình còn dài hay ngắn cũng không sao cả. Sống một ngày với tình yêu Thiên Chúa quý hơn cả ngàn ngày với những tham vọng phàm phu. Chết trong tình yêu Thiên Chúa để còn sự sống đời đời của tâm linh hơn là chết trong mù mờ của các nghi thức, triết lý, tôn giáo do trí tuệ con người bày vẽ. Khi nhận được tình yêu từ Thiên Chúa, anh cảm thấy mình nhận thức về trách nhiệm của mình đối với dân tộc một cách rộng mở hơn, phóng khoáng hơn và thoát ra hỏi những di lụy quá khích do lịch sử để lại.
Cuộc sống anh đã lăn lóc vào những thực tế của đạo cũng như đời để chứng nghiệm, để trả giá cho những ý nghĩa mà mình tìm kiếm. Khi còn nhỏ, anh mơ ước đi tìm chân lý như thái tử Tất Ðạt Ða. Ðang học đạo, anh tình nguyện tự thiêu chống bất công tôn giáo ở miền Nam, vì lúc ấy anh tin rằng đó là cách tìm gặp chân lý mau nhất, nhưng suýt nữa anh đã bị Việt Cộng lợi dụng tổ chức cho cái chết của anh dưới danh nghĩa hy sinh cho Ðạo Pháp. Ðược sống sót, anh lại từng trải cái ''vinh quang'' của người ''anh hùng'' chết hụt (gọi là thánh hụt). Nhờ vậy mới kinh nghiệm được sự ganh tỵ của vài nhà tu khác về cái ''vinh quang thánh hụt'' mà họ đã gán cho anh. Nghiệm thấy con đường đi tu không dễ gì tìm ra chân lý, anh cỡi áo tu để mặc lại chiếc áo người phàm, chiếc quần người trần tục. Một năm sau khi cởi áo thôi tu, anh lập gia đình, nhưng bị một người bạn đang làm đại đức đến nhà ngủ ké với vợ mình. Anh chẳng khác chi gà ấp trứng vịt. Sau khi Cộng Sản vào chiếm miền Nam, anh muốn cùng họ xoa dịu vết thương chiến tranh ở quê nhà. Ðâu ngờ lòng ngay thẳng của anh đã đưa anh vào nhà tù cộng sản. Nhờ vậy, anh nhanh chóng hiểu được thực chất CSVN là gì. Hết tù, anh đọc Kinh Thánh, tin Chúa; nên bị thằng em ruột đã từng cởi áo cà sa ra làm công an tôn giáo kềm kẹp sát bẹ sườn. Lại bị một người anh ruột được Cộng Sản đào tạo thành vô thần nhà nòi, dựa vào thế lực của Cộng Sản để sang đoạt ngôi nhà mà vợ chồng anh đang ở. Sang đoạt nhà của anh không được, ông anh ruột ấy trả thù bằng cách tổ chức một cuộc gây lộn để chưởi bới đạo Chúa rồi sai thằng con trai của anh ấy phang lên đầu anh những cú đấm thượng thừa. Cứ mỗi cú đấm nện lên đầu người chú ruột, thằng cháu anh đếm từng tiếng một, hai, ba đầy sự ngạo nghễ. Ðối với đời, đây là một nỗi ô nhục cho gia tộc, cho cá nhân; nhưng đối với Chúa, anh nhờ ơn Người để nhịn nhục, chịu đựng những cú đấm ấy. Anh không đáp trả lại bằng bạo lực, không dùng lời mắng chưởi, dù lòng anh vẫn còn đau đớn sâu xa suốt mấy năm nay, vì đời anh chưa bao giờ tưởng tượng được tình anh em ruột thịt lại có thể đối xử với nhau tàn nhẫn đến như thế trước mặt người cha ruột của mình trong ngày mùng một tết nguyên đán 1996. Ðây là một bằng chứng trực tiếp về tội ác cộng sản xẩy ra trong gia đình anh. Anh cũng biết chắc rằng những tội ác nầy đang đẩy đảng CSVN vào chỗ tận cùng của chúng.
Cũng như việc anh lập lại gia đình một lần nữa, nhưng lại gặp một bà vợ làm trùm công an chìm cho Cộng Sản. Chính bà vợ nầy ký giấy trục xuất anh ra khỏi thành phố Saigon, vì anh không chấp nhận cùng bà ta làm việc cho Cộng Sản. Cộng Sản đã phá tan tình chồng nghĩa vợ của gia đình anh, chúng xúi bà vợ ''tài ba'' của anh ăn cắp đứa con trốn ra nước ngoài làm công tác kiều vận trong giới Tin Lành. Bà ta trở nên một nhà ''giảng đạo thành công'' đến nỗi đã dạy cho con anh coi cha nó như một thằng khốn nạn. Ấy thế mà cũng có những mục sư tin tưởng bà ta để coi anh như một kẻ tà đạo! CSVN cố tình làm cho anh phải cứ đối phó với những thất bại riêng tư để bị mất khả năng, mất cơ hội vạch trần tội ác của chúng, nhất là hao hụt năng lực thiêng liêng trong Chúa. Nhưng CSVN không biết rằng Chúa vẫn ban phước cho anh rất dồi dào ngay trong các nghịch cảnh. Nay trốn ra nước ngoài tỵ nạn, anh còn bị một đứa em con bà dì ruột xem nỗi đau khổ, sự nguy hiểm mà anh đang chịu đựng là một trò hề để nó nhạo cười như một kẻ lừa thầy phản bạn. Nó còn cho rằng cả gia đình anh vô phước mới gặp phải như thế. Nó viết cho anh: ''nhà kia lỗi đạo con khinh bố, mụ nọ chanh chua vợ chưởi chồng''. Anh tin rằng ít nhất thằng em con bà dì ruột của mình đang ở Mỹ cũng thông cảm sự oan trái của mình nếu mình bị đẩy vào cái thế phải chết trong con đường cùng. Nào ngờ thằng em con bà dì ruột ấy, sau khi đã nắm rõ sự đau đớn của anh, nó lại nhạo cười một cách khoái trá về cái chết của mình nếu có xẩy ra. Thế là anh được học thêm biết bao thế thái nhân tình từ thế giới tu hành, đức tin tôn giáo, tình ruột thịt, tình vợ chồng, tình cha con, họ hàng nội ngoại, tinh thần chính trị, văn hóa, đạo đức của cả hai miền Nam & Bắc Việt Nam.
Tuy đau đớn thật, nhưng anh cám ơn Trời đã cho anh trải qua biết bao nhiêu sự thật đầy mĩa mai như thế để anh uống cạn chén tình-đời-nghĩa-đạo. Anh thật sự cám ơn Trời trong từng giây phút. ''con chỉ biết cám ơn Trời trong bất cứ nỗi đau nào, xin Người giữ con khỏi sự ác cho đến lúc tắt thở, vẫy chào trái đất yêu dấu nầy, dù phải mất tất cả để có Ðấng Vĩnh Hằng, con vẫn an vui. Amen ''. Mỗi khi anh nói được câu cám ơn Trời, linh hồn anh cảm thấy vui sướng hơn bất cứ một sự vui sướng phàm tục nào mà anh đã từng nhận được trước đây, mặc dù một số người thân của anh vẫn còn cư xử khá tệ bạc, tàn nhẫn đối với anh. Ðặc biệt nhất là bà vợ cộng sản của anh, anh đã nhờ bà ta mà học được những bài học thực tế. Xưa nay không có một trường đại học nào, không có một quyển sách nào dạy cho anh một câu thực tế như câu Kinh Thánh sau đây: Người đàn bà nhơn đức là mão triều thiên cho chồng nàng, còn người vợ làm xấu hổ khác nào sự mục rữa trong xương cốt người (Châm Ngôn 12:4). Ai chỉ nhìn bề ngoài thì thấy bà vợ anh là một người đàn bà thông minh, mềm mại đáng tin cậy. Một người đàn bà có cuộc sống giao tiếp vừa công khai vừa bí mật đầy tức tưởi, kịch tính, nhưng đó là một người đã khiến cho anh phải nhiều năm điêu đứng đến nay vẫn chưa nói hết sự thật.
Sau khi bị ông bạn thầy tu ẳm mất người vợ đầu tiên, anh đã dấn thân học hỏi để được làm chồng lần thứ hai. Kết quả là mình đã dâng hiến con tim chung thủy cho một bà vợ bạc tình. Bà ta đã bạc tình một cách chân thành, đầy cảm kích, đầy kịch tính! Anh đã trút con tim chân thật cho một kịch sỹ tài ba trên sân khấu. Kịch sỹ tài ba nhập vai sống động đến nỗi làm cho khán giả nhầm lẫn cả sân khấu với đời thường. Khi vỡ lẽ ra thì đã quá muộn màng. Vì kịch sỹ đã kịp thời diễn một màn hỏa hoạn được huấn luyện sẵn do dạo diễn Mai Chí Thọ cho lửa đốt cháy luôn cả sân khấu. Vai chủ động kịp thoát thân, vai đồng diễn bị cháy sém suýt toi mạng. Khán giả giải tán. Sân khấu tan hoang. Nghệ thuật và sự lừa bịp kỹ xảo bị dồn chung vào những thì thầm oan nghiệt. Dấu tích của sự thật sau những dụng cụ hóa trang bị treo lủng lẳng như thi hài thắt cổ chưa được cắt dây. Ðoàn ca kịch giải tán. Kịch sỹ ăn cắp đứa con trốn ra nước ngoài khai man lý lịch để diễn tiếp những màn lừa bịp chuyên nghiệp hơn: đổi nghề sân khấu ra nghề giảng đạo. Lời hùng biện có khả năng lừa mị và thu hút những lỗ tai phàm. Rạp hát và sân khấu ''Hoa Vận'' đã cháy, nay được dọn sạch làm bãi giữ xe cho người đi nhậu. Hậu quả oái ăm còn biến tấu lòng vòng, nói ra nghe phi lý hơn cả chuyện hoang đường thần thoại. Sự gian ác thì xa hoa, sự thật thà thì keo kiệt. Người chịu thiệt phải cô đơn. Kẻ bất nhơn được ủng hộ. Sự phẫn nộ bị phê bình. Người chân tình bị coi rẻ. Kẻ mánh khóe được tôn vinh. Kẻ chung tình bị phản bội. Kẻ có tội được nương nhờ. Người dại khờ bị bỏ rơi. Kẻ theo Trời người theo quỷ. Kẻ có lý lại gian tà. Ai thật thà đành chịu thiệt. Ai quỷ quyệt được đón chào... Ngẫm nghĩ đến Bùi Giáng khi đọc những câu thơ của ông, anh thấy nhẹ nhõm trong lòng. Cuộc đời như một canh bạc, như một trò chơi; ai càng thành tâm, càng thật thà càng bị bạc đãi. Ấy thế mà trong con mắt vô lượng của tạo hóa thì kẻ vui chơi thật thà vẫn sở đắc cái hạnh phúc riêng của họ. Trong lắc léo đời thường vẫn còn nụ cười vi diệu của nàng thơ. Bùi Giáng nói rằng:
Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất
Thứ hai, ba, bốn, chín, lại thêm mười
Bờ tang hải biển dâu xua lật úp
Bến phiêu bồng anh lật đật theo đuôi.
Trò chơi lật đật theo đuôi sau cái bến phiêu bồng của Bùi Giáng quả là tuyệt vời.
Phiêu bồng lật đật theo đuôi
Hài Nhi vẫn một nụ cười mênh mông !
Sải thân thườn thượt xuôi dòng
Chứa chan lệ chảy mặn nồng yêu em.
Con tim ấy có ngọn đèn
Tình yêu thứ nhất bon chen chín mười
Tuy sống với đức tin, nhưng thật lòng mà nói, đức tin của anh chưa bằng một nửa hột cải nên còn phải nếm trải long đong. Bao lâu sự trui rèn được trọn vẹn, chắc chắn anh sẽ vui sướng thỏa mãn hơn nhiều, vì mỗi bước đi trong Hồng Ân Cứu Chuộc, anh nhận thêm sự bình an và niềm vui thỏa mỗi ngày. Ngay bây giờ Hồng Ân Chúa vẫn tràn đầy nên anh cứ thổn thức tri ân. Nếu không có Ân Hồng Thiên Chúa che chở, chắc anh đã bị quỷ nghiền nát lâu rồi trong đống xương tàn của thế sự. Ðó là thực tế của cuộc đời trong những ngày cuối rốt gian truân nầy. Lẽ đạo vô vi của Ðấng Tạo Hóa vì thế đã hiện thân thành Ðấng Cứu Chuộc trần gian đúng hạn đúng kỳ cho con người nhỏ bé phù du còn nơi nương tựa để được trở về chốn vĩnh hằng vô lượng vô biên.
Anh đã tự dấn thân để sống và kinh nghiệm với tôn giáo, với tình đời, nhất là với cộng sản vô thần giữa quê hương đổ nát. Chỉ có Thượng Ðế biết anh là một người khát khao chân lý không nương tựa vào triết lý suông; Người đã cho anh trải qua những cuộc éo le trên đời để anh hiểu rằng Người là Ðấng duy nhất chân thần hằng hữu đời đời không thay đổi. Nếu không được gặp lẽ đạo nhiệm mầu của Chúa, chắc chắn anh không thể tiếp tục đứng vững chứ đừng nói là bước đi. Ði tìm chân lý thì phải trả giá cho chân lý. Chân lý bị bắt hiếp ngay trong gia đình ruột thịt, cha mẹ, vợ chồng, con cái, bạn bè, thân thích, xã hội, quốc gia, và bây giờ sự kiện ấy còn mở rộng hơn nữa trên mặt địa cầu. Nhưng Chúa không để cho sự ác thắng sự lành mãi đâu. Nhìn theo thế gian thì anh đã chịu nhục. Nói như Thúc đã viết trong một lá thư sau nầy là
''Trong cuộc chơi nầy anh sẽ thua.
Thua từ cờ tướng đến bầu cua''.
Thật tình mà nói, Thúc là một người rất tàn nhẫn. Em chẳng những đã không cảm thông được nỗi khổ của anh, không an ủi anh mà lại còn thẳng thừng nhạo báng và cầu cho anh thất bại đến chết mất trong sự phỉ nhổ của em. Hình như đức tính của em có bàng bạc trong dân tộc tính của chúng ta ngày nay đó em ạ. Sau những trăm năm phân rẽ, hơn thua, thù hận, chúng ta bị huân tập những tính xấu rất tàn nhẫn đối với nhau và tệ hơn nữa là cứ nhắm mắt mà tự lừa phỉnh mình bằng thái độ kiêu hãnh khoe khoang những mấy ngàn năm truyền thống văn hoá !
Vì nhạo cười anh một cách bất nhẫn, Thúc hoàn toàn không thấy rằng anh đã chiến thắng những tối tăm ngu xuẩn ấy rồi. Không phải mưu lược thắng mưu lược. Không phải bạo lực thắng bạo lực. Nhưng sự lành của Thiên Chúa đã thắng sự ác trong chính tâm hồn anh. Dầu bị anh em ruột thịt, bị vợ con của mình dùng thế lực cộng sản để hiếp đáp, nhưng đứng trong Ðức Tin, anh đã nhờ ơn Chúa mà thắng sự ác. Anh chấp nhận chịu đòn vọt, chịu sự mắng nhiếc, nhưng không để miệng mình phạm vào lời hung dữ, không để tay chân mình đáp trả lại bằng hành động bạo lực như họ đã làm cho mình. Chính trong giây phút nguy nan nhất, anh được nghe tiếng Chúa phán trong tâm linh mình: Các ngươi có nghe lời phán rằng mắt đền mắt, răng đền răng. Song ta bảo các ngươi, đừng chống cự kẻ dữ. Trái lại nếu ai vả má bên hữu ngươi, hãy đưa má bên kia cho họ luôn (Mathew 5:38-39). Nếu anh không bị bức hiếp, câu kinh thánh trên đây chỉ là lời dạy suông bằng chữ như bất cứ câu giáo lý nào khác trong những quyển sách mà thôi. Khi bị chà đạp, anh đã đọc lớn câu Kinh Thánh ấy và tâm hồn anh nhận lấy một sức mạnh thiêng liêng từ nơi Thiên Chúa. Anh thấy sự nhân từ của Thiên Chúa đã chiến thắng những ác tưởng trong linh hồn mình.
Giữa cuộc hỗn mang bắt bớ đạo trong gia đình, rõ ràng là một cảnh nồi da đã xáo thịt. Nhưng kết quả là ông thân sinh của anh đã tin Chúa công khai. Ông đang ở với gia đình Trường, vì gia đình nầy là gia đình tin Chúa. Ông đã từ chối mọi sự sắp xếp của Thắng và Hoàn. Sự lành thắng sự ác là như thế. Ðây là những thử thách về Ðức Tin mà anh được học để sống đạo, để biết nhịn nhục, kinh nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa. Có những đêm hôm trong giấc chiêm bao, anh nghe những câu Kinh Thánh Chúa phán vào linh hồn mình. Khác với những ngày trước, khi còn làm ông đại đức, trong giấc ngủ anh thường gặp những ác mộng. Khi ấy còn ở tuổi xuân nhưng mình chưa có Chúa nên giấc ngủ cũng chẳng bình an. Cho nên ngày nay dù gặp phải sự thử thách, anh vẫn biết ơn Chúa, vì sự bình an từ nơi Chúa là sự bình an tuyệt vời cả khi thức cũng như khi ngủ. Anh càng biết ơn Chúa và xác tín hơn nữa khi nhận thấy rằng đây không còn là tai họa riêng trong gia đình anh, mà chính là tội lỗi của loài người trong thời kỳ sắp tận thế. Ðó là một trong những dấu hiệu mà Chúa Jesus đã dặn dò rất chi tiết trong Thánh Kinh Tân Ước. Người dạy rằng những kẻ theo đạo của Người sẽ bị thế gian ganh ghét, bị anh em ruột thịt tố cáo và đánh đập, bị chính quyền bỏ tù và tra tấn... Thậm chí có thể bị giết đi, nhưng những ai trung tín đến cuối cùng thì một sợi tóc trên đầu cũng không bị hại (xem sách Ma-thêu 10:16-23).
Dù hiện nay anh chỉ là một người nộp đơn xin tỵ nạn, anh chưa được tự do, nhưng đang được ngồi một chỗ an toàn để viết thư nầy cho Thúc. Ðây cũng là một bằng chứng sống về sự che chở của Chúa trong đời anh. Giả thử vài tháng nữa anh sẽ bị từ chối, bị đưa về quê hương để ngồi tù; thì anh cũng đã chiến thắng rồi. Vì những quốc gia không tin anh, không giúp anh cũng không đủ khả năng đẩy anh vào chỗ van nài một cách giả dối. Nếu những nước văn minh khoa học, được tiếng có tự do dân chủ, nhân quyền, nhưng không đủ trình độ, hoặc không đủ sự sáng suốt để nhìn thấy lòng chân thành và hoàn cảnh éo le của anh; sự hỗ thẹn sẽ thuộc về họ, còn sự thiệt thòi phù du nầy đã xẩy đến cho anh dù ở quê nhà hay ở hải ngoại. Nhưng ở đâu anh cũng không còn là vô dụng, dù khi anh ngồi trong một nhà tù cộng sản ở Việt Nam mà được thỏ thẻ những điều quý giá thiêng liêng của Thiên Chúa cho các bạn tù bên cạnh mình thì quả thật là một phước hạnh cao quý giữa thế gian. Lúc ấy Chúa sẽ hiện diện trong các xà lim với anh nhiều hơn là trong các nhà thờ cao nghều nghệu ở các nước Âu-Mỹ. Lúc ấy có thể một vài đảng viên cộng sản vô thần quỳ xuống ăn năn xưng tội xin được Chúa tha thứ như đã từng xẩy ra trước mặt anh trong năm 1981-1982 tại 32 Lương Nhữ Học, Q5.
Thúc nên nhớ rằng tự do của các nước Âu-Mỹ cũng là tương đối mà thôi. Vì đó là sự tự do của trần thế. Còn một sự tự do lớn hơn nhiều trong linh hồn con người, đó là tự do của Thánh Linh. Nói nôm na là tự do làm điều lành mà không bị điều dữ kềm kẹp ngay trong thế giới nội tâm của bản ngã mình. Ví dụ một người bị cộng sản bỏ tù oan, nhưng anh ta không oán thù cộng sản mà lại cầu nguyện cho họ. Anh đã nhận được sự tự do nầy trong tình yêu Thiên Chúa, và anh đã thực tập thể hiện tình yêu nầy trên vợ, con, anh em ruột thịt của anh như anh đã nói ở trên. Cụ thể nhất đối với vợ anh, anh đã làm như thế nầy: đứng ngoài tất cả mọi việc ác về chính trị mà bà muốn lôi kéo anh vào. Trong khi bà bị lâm lụy vào một sự lang chạ với những tay đàn ông khác đến nỗi vị mục sư trong hội thánh Tin Lành của anh (tên là HTB ở PTH) đã biết điều đó và nói cho anh nghe, nhưng anh vẫn giữ thái độ ôn tồn và yêu mến để giúp bà ta tự chiến thắng điều ác của bà ta trước. Mỗi đêm bà ta bị ray rứt khó ngủ, anh vẫn bỏ ra cả vài tiếng đồng hồ để đấm lưng cho vợ. Từng phút đấm lưng, xoa bóp cho một bà vợ như thế, anh đã thiết tha cầu xin Chúa giúp cho bà ta khai thông cái cục bướu tội ác trong lòng bà. Chắc chắn là Chúa muốn khai thông, nhưng bà ta không thích nên Chúa đã không ép. Mỗi ngày anh vẫn nhẹ nhàng gián tiếp khuyên nhủ vợ mình.
Hành động nhẹ nhàng của anh tuy chưa đủ sức giúp bà ấy ăn năn, nhưng đã làm cho bà phải đổi chiêu. Bà đã nhậu nhẹt say mèm, về nhà ói mửa tùm lum và hù dọa anh. Nhưng anh vẫn chăm sóc bà như hồi xưa anh chưa tin Chúa cũng đã từng nhậu và ói mửa như thế và đã được bà ta dọn dẹp. Anh giấu biệt không cho con anh biết bất cứ một sai lầm nào của mẹ nó. Anh không hề tỏ ra gây gổ giận dữ đối với mẹ nó, dù một lần cũng không. Bà ta nổi điên lên bớp tai anh, anh cũng im lặng. Bà ta làm bộ tin Chúa đem kinh thánh giảng ngược lại cho anh, anh cũng vui vẻ lắng nghe... Một bà vợ như thế mà vẫn không hề đủ sức lôi kéo anh vào những cuộc cãi lộn. Bà ta ăn cắp đứa con và trốn đi, để lại cho anh nợ nần, tai tiếng, sự cô đơn và bị hiểu lầm. Ngày nay tại Mỹ, con anh nghe lời dạy của mẹ nó, nó cho rằng anh là một người cha tồi. Dù rất đau đớn trong lòng, nhưng linh hồn anh vẫn yêu thương nó, yêu thương bà ta, dù không thể chấp nhận bị lôi kéo vào tội ác của bà. Khi anh hành động trong sự nhịn nhục của Thiên Chúa, một số mục sư Tin Lành cũng không hiểu, không tin anh. Sở dĩ họ tin bà ta hơn vì họ gần gũi bà ta. Nhờ vậy anh mới hiểu thêm rằng ngày nay không phải mục sư nào cũng nhạy bén trong Thánh Linh Thiên Chúa. Dù sao thì Chúa vẫn giữ linh hồn anh khỏe mạnh. Sự ác trong anh vẫn không đủ sức ngoi dậy để oán ghét những người ác và người vô tình ủng hộ kẻ ác. Sự chiến thắng nầy là thực chất của năng lực tự do mà Chúa đã đặt vào trong anh. Làm sao em hiểu được điều anh viết trong khi em chưa hề kinh nghiệm Tình Yêu và Tự Do trong Thiên Chúa? Khi viết ra điều nầy, anh vẫn còn chừa lại rất nhiều ngõ cho vợ anh hối cãi, chứ không phải để bắt bí bà ta đâu. Nhân, đây anh khuyên Thúc nên hiểu chữ hơn và chữ thua trong một ý nghĩa giải thoát chứ không phải chỉ ràng buộc trong ý nghĩa hơn thua tầm thường như em nghĩ.
Anh trở lại với câu anh viết cho Thúc khi đề cập đến quyển sách ÐTVÐGH của nhóm Giao Ðiểm(GÐ): họ biết chữ mà không biết nghĩa. Ðây là một câu anh viết thật lòng. Thúc nên nhớ rằng không phải tất cả những ông có bằng tiến sỹ, thạc sỹ là biết hết mọi ý nghĩa trên các con chữ mà chính họ viết ra. Nay anh cần giải thích thêm. Những tác giả của quyển sách ấy dùng chữ Ðối Thoại Với... Nghĩa là nói chuyện với... Ðối thoại là hai bên nói chuyện với nhau để bày tỏ ý kiến của mình. Bên nầy có quyền nói, bên kia giữ thái độ lắng nghe; rồi tới phiên bên kia có quyền nói, bên nầy lại nghe. Nói cái gì cũng nên nói cho đàng hoàng, lịch sự, có căn cơ. Nói làm sao để giúp người nghe dù chủ quan cũng như khách quan vẫn thấy được lý lẽ của mình. Ðằng nầy các anh Giao Ðiểm tự mình đặt ra một cụm từ Ðối Thoại Với Ðức Giáo Hoàng, nhưng trên thực tế, họ mượn cái ''sơ hở'' nhỏ trong một câu của Ðức Giáo Hoàng để lấy cớ hùa nhau chưởi rủa toàn bộ một tôn giáo, chưởi luôn cả Kinh Thánh, và nói phạm đến Chúa một cách rất thiển cận, hồ đồ; chứng tỏ họ chưa hiểu cả nghĩa đen của hai chữ đối thoại. Nếu nói hàng chục ông tiến sỹ mà chưa hiểu nghĩa đen của hai chữ đối thoại thì quá kỳ cục. Nhưng trên thực tế, ai đọc quyển sách của họ mới thấy một nội dung hoàn toàn nghịch lại ý nghĩa của đầu đề. Ðối thoại mà thành ra chưởi bới một chiều. Chẳng lẽ cả mấy chục ông tiến sỹ mà cùng một lúc đồng loạt sơ ý?
Dù khôn lanh đến mấy mà thiếu đạo tâm thì cũng khó thấy hết sự tối tăm của chính mình. Ðạo Phật là một đạo siêu thoát đến nỗi không thể dùng tư tưởng, lời nói, hay chữ viết nào để định nghĩa tuyệt đối được. Kinh Phật dạy rằng chân lý tuyệt đối là bất khả tư, bất khả nghị, bất khả lượng, bất khả thuyết. Ai giác ngộ thành Phật mới hiểu rốt ráo. Chưa ai thấy Phật bằng con mắt phàm được cả. Ðức Phật thiệt bằng xác thịt cũng đã đốt thành tro rải hết ra trên một cùng đất Ấn rồi. Ðức Phật ý niệm là một Ðức Phật không phải Phật. Ðức Phật tư tưởng lại càng không phải Phật. Phật hình tượng lại bị giáo lý nhà Phật cho là tà đạo. Vậy Ðức Giáo Hoàng là một con người như chúng ta. Ðức Giáo Hoàng có chức vụ thiêng liêng, nhưng người cũng là một con người như chúng ta thôi. Ðức Giáo Hoàng không tu để thành Phật, do đó sự nhận xét của người là một nhận xét của con người mà thôi. Hàng tỷ người không hiểu Chúa cũng không vì thế mà làm cho Chúa mất ý nghĩa đâu. Chẳng có ai dám tự nhận mình là người hiểu Chúa hay hiểu Phật một cách rốt ráo. Con mình đẻ ra, lắm khi mình chưa hiểu chúng nó hết, huống gì các Ðấng Cao Siêu.
Một nhóm người trí thức tự cho mình đã đạt tới chỗ cao siêu của một giáo lý mênh mông vô lượng, thế thì khi bày tỏ sự cao siêu giải thoát mênh mông ấy, không cần phải chưởi bới, sân si, xuyên tạc, thóa mạ kẻ khác để chứng minh mình cao siêu. Nếu anh em Giao Ðiểm dùng lời lẽ lịch sự, lý luận vững vàng giúp cho người đọc thấy được chất liệu cao siêu, từ bi, hỷ xả trong con người mình thì quý biết mấy. Người tin vào chính mình mới đúng là người có sự tự tin. Người tự tin là người bình an, tỉnh táo, ôn tồn chứ đâu cần phải phùng mang trợn mắt sừng sộ. Phùng mang, trợn mắt, sừng sộ thường là để che giấu cái yếu bên trong, hoặc che giấu cả cái yếu bên ngoài, giống như con ểnh ương trương tròn cái bụng trước miệng con rắn. Sự im lặng tuy hai mặt, nhưng vẫn có sức mạnh rất đáng kể.
Trong lịch sử đấu tranh Phật Giáo Việt Nam, có một vị lãnh đạo ưa to tiếng nhất, hùng hỗ nhất, uy danh nhất; luôn luôn tỏ ra chống lại các chính phủ miền Nam hết mình. Ðến khi Cộng Sản vào Saigon, vị ấy đã sợ hãi sự ngang ngược của Cộng Sản, bèn thay đổi thái độ hùng hỗ ngày xưa của mình thành thái độ Im Lặng Như Chánh pháp suốt 25 năm qua. Vì vậy mà đến ngày nay chưa ai dám phê bình vị ấy, có lẽ vì người ta chưa hiểu được ý nghĩa của sự im lặng đó. Phải chăng vị ấy thật sự im lặng vì đã thấy tội ác cộng sản? Phải chăng vị ấy im lặng vì đã thấy sai lầm của mình trong tội ác cộng sản? Phải chăng vị ấy im lặng vì thấy tội ác cộng sản sau 1975 là sắc tức thị không để chứng tỏ mình là không tức thị sắc? Còn những sai lầm của các chính phủ miền Nam trước 1975 là sắc bất dị không? Hoặc là cả hai chế độ Nam Bắc đều không bất dị sắc? Chưa ai biết được thâm ý im lặng của ''người'' nên chưa ai lên tiếng. Riêng những tác giả quyển ÐTVÐGH, khi cùng nhau viết lách như thế, là khi mà họ chưa kịp nghĩ đến những mâu thuẫn giữa ý nghĩa văn tự và ý nghĩa hành vi của mình. Vì thế, anh viết rằng họ chỉ biết chữ, mà không biết nghĩa. (đây, anh chỉ giới hạn vào nghĩa đen của hai chữ Ðối Thoại mà thôi). Họ chưởi rủa người ta theo một chiều để tự xưng mình là kẻ đang thực hiện một cuộc đối thoại rất ''trí thức, rất lịch sự'' và rất hợp với đạo ''giải thoát cao siêu'' của mình! Người hành động như thế là tự chứng minh rằng mình không có đạo tâm mà chỉ nuốt trộng một ít phế liệu của đạo để tái chế thành tạp chất bản ngã mà thôi.
Anh không hề đem chuyện của nhóm Giao Ðiểm ra để xúi dại Thúc bút chiến. Em là người đưa vấn đề nầy ra cho anh trước. Còn lá thư của anh, anh viết cho Thúc chứ không phải viết cho nhóm Giao Ðiểm. Em không nên vơ hết mọi thứ thập cẩm vào chung một nồi. Một mặt Thúc muốn binh vực họ, một mặt em lại ném đá vào họ, một mặt khác Thúc khuyên anh đừng ném đá vào những người ấy; rồi một mặt khác nữa là Thúc lượm những viên đá của họ để ném vào anh mình. Vì anh viết lời đề tặng anh em nhóm Giao Ðiểm trong một bài thơ của anh, Thúc khuyên anh đừng đụng chạm tới họ. Khi anh vừa mới giải thích ý nghĩa của mình, Thúc lại dùng từ một lũ để nói về họ, và tiếp theo Thúc lại khích anh cứ bút chiến với một lũ ngáo mà lên mặt dạy đời u đầu chảy máu tính sau. Thế là Thúc vừa làm khán giả, vừa làm trọng tài, vừa làm cầu thủ đá banh, vừa làm cổ động viên và bán vé luôn!