Thúc hỏi anh:
Tại sao anh nói đảng cộng sản Việt nam là 1 lũ magfia? Có phải không gì ngoài đồng tiền? Ðồng đô la. Chuyện nầy anh nói như ''Mẹc'' xin lỗi nhé. Làm người đọc thêm bực mình.
Anh trả lời:
Khi nói đảng Cộng Sản Việt Nam là mafia, anh nghĩ đến bàn tay lông lá do đảng CSVN tổ chức và chỉ huy những tội ác giết người cướp của. Bàn tay nầy là Ban Kinh Tài của đảng Cộng Sản đã có từ trong thời chiến tranh. Ban Kinh Tài nầy đã tổ chức cho người VN vượt biên từ 1976 đến 1980 tại miền Nam Việt Nam. Lúc đầu đảng CSVN chỉ muốn loại người Hoa ra khỏi VN và lột sạch tài sản của họ. Nhưng dần dần chúng thấy nhiều người Việt khai giả tên người Hoa để ''được'' ra đi, chúng nhanh chóng nhận ra đây là một cơ hội trục lợi lớn; vừa cướp của vừa giết người một cách hợp lý (nhất cử lưỡng tiện), bèn tổ chức đại trà cho đồng bào ra đi, sống chết mặc họ. Mỗi tỉnh đảng CS thành lập một Ban Kinh Tài riêng. Tại Cần Thơ, văn phòng Ban Kinh Tài nầy đặt tại số 54 đường Trần Phú, sát tòa nhà đảng uỷ Cần Thơ. Tất cả tàu đăng ký vượt biên bán chính thức của Cần Thơ đều phải qua văn phòng Ban Kinh Tài nầy để thu tiền thuyền nhân. Cần Thơ là tỉnh hoạt động nổi cộm nhất, vì nơi đây có nhiều bến bãi cho thuyền xuất phát. Có thể nói là hàng ngàn chiếc ghe đã ra đi qua Ban Kinh Tài của đảng uỷ Cần Thơ. Hàng triệu thuyền nhân còn sống hẳn còn nhớ. Danh từ thông dụng nhất mà hầu hết người Việt Nam đều biết là vượt biên bán chính thức. Liên Hiệp Quốc biết chuyện nầy khá kỹ. Ðây vừa là một chính sách cướp của giết người, vừa hô to ''chính nghĩa anh hùng'' của đảng CSVN. Chính sách nầy đã bị hội nghị quốc tế tại Genève năm 1980 tố cáo thẳng thừng, nhưng đảng CSVN vẫn dai như đỉa đói, chúng tiếp tục áp dụng chính sách nầy cho đến ngày hôm nay càng tinh vi hơn. Sau khi qua Ðức, anh sống trong trại tỵ nạn lại càng thấy bàn tay lông lá của Ban Kinh Tài của đảng CSVN đối với đồng bào miền Bắc. Ngoài danh từ mafia, anh còn vài từ khác, nhưng với một lá thư ngắn viết cho Thúc, anh chưa diễn tả hết ý của mình. Ai là người không đau đớn khi thấy đồng bào mình bị CSVN đem thả trôi ngoài biển sau khi lột sạch tài sản của họ, đẩy họ vào đường cùng ; phải đi tìm tự do trong thập tử nhất sinh? Năm 1979, anh ghi lại nỗi đau ấy trong vài câu thơ như sau:
Hồn ai đó?
Hồn ai đó giữa hồng hoang sống lại?
Bước xa xăm mặt đất dấu in đời.
Hồn ai đó? Hồng hoang ơi có thấy?
bước muộn màng chen bước sớm ra khơi !
Hồn cũng có con tim làm huyết mạch
Hồn cũng còn buồng phổi để đong hơi
Và có cả tiếng than hồn đói rách
Hỏi làm sao không lòng dạ con người !
Em có biết hồn ai lưu luyến mãi ?
Hồn nước non Âu Lạc tuổi bốn ngàn.
Và em biết hồn ai đang tê tái?
Bỏ tháng ngày xua lịch sử sang trang !
Mặc dầu đã chứng kiến cả một hệ thống đảng Cộng Sản tham nhũng, bóc lột, hà hiếp người dân trong nước suốt 24 năm qua, nhưng khi qua Ðức tỵ nạn, anh thấy nhiều đảng viên cộng sản lại là nạn nhân của đảng CSVN. Tiếc thay khi hàng trăm ngàn người Việt Nam trở thành nạn nhân của đảng Cộng Sản tại các nước cộng sản cũ như Nga, Hung, Tiệp, Ba lan và đặc biệt là tại Ðông Ðức cũ mà không có ai giúp họ tìm ra một lối thoát. Chính những nạn nhân cộng sản nầy đã bị đẩy vào con đường tội phạm tại nước Ðức. Trong số những người Việt Nam qua đây buôn lậu do mafia cộng sản Việt Nam tổ chức, có rất nhiều cán bộ đảng viên đi theo vừa làm công tác an ninh, vừa buôn lậu, cướp của, giết người. Thường một người ''Việt Ðông Âu'' ra đi là đã có đường dây làm ăn do mafia cộng sản ở nước ngoài chuẩn bị hẳn hoi rồi. Khi lọt vào nước Ðức, họ lo kiếm tiền ngay, khi bị kẹt mới ra trình diện xin tỵ nạn. Mục đích ''tỵ nạn'' nầy là tranh thủ, lợi dụng luật pháp nhân đạo của nước Ðức nhằm kéo dài thời gian tạm dung để có cơ hội kiếm tiền. Họ có tên trong trại tỵ nạn để lãnh tiền trợ cấp hàng tháng, được luật pháp nước Ðức bảo vệ, nhưng họ thường xuyên có mặt trong thị trường buôn lậu, hoặc thoáng một cái là họ đã ''bí mật'' qua Ba Lan, Tiệp, Nga lấy giấy tờ thật ở bên đó, mua vé về Việt Nam trong vài tuần rồi sau đó trở lại nước Ðức lãnh tiền ''tỵ nạn cộng sản'' khỏe re. Trong trại tỵ nạn, những người Việt nầy chào hỏi nhau với câu''Ðã kiếm đủ vé chưa?'' Ra khỏi trại điều tra ban đầu, họ được chuyển đến sống lâu dài trong các trại định cư, nơi đây họ vẫn được lãnh tiền nhân đạo hàng tháng, và ''đi làm ăn'' bất hợp pháp thoải mái. Lúc nầy họ hỏi thăm nhau ''Gởi về được mấy vé rồi ?'' Trung bình một vé ra đi là phải trả cho mafia cộng sản từ 5.500.US$ đến 8.000.US$. Riêng những tay đảng viên cộng sản trong hàng ngũ lãnh đạo các băng ''bộ đội'' thì ít hỏi han nhau công khai về tiền bạc. Họ ít nói, khi cần nói là dùng tiếng lóng nội bộ với nhau, hoặc chỉ thì thầm nơi riêng rẽ. Ðám đảng viên nầy ít tham gia trực tiếp vào các cuộc đánh lộn trong trại, nhưng mạng sống của hầu hết dân buôn lậu tùy thuộc những viên đạn trong tay họ. Ðây là những thanh niên thiện xạ, lái xe giỏi, chuyên đi thu tiền ''thuế'' từ những người trực tiếp làm ăn trong phạm vi địa giới mà họ tự vạch vẽ ra. Khi có chuyện trục trặc về tài chánh hay quyền lợi nội bộ, hoặc với các băng đảng Việt Cộng khác, họ có thể đem những tay sát thủ từ Nga, Ba Lan, Tiệp qua thanh toán nhau cấp kỳ và rời khỏi nước Ðức ngay tức khắc bằng đường bộ, hoặc ẩn náu vào những khu riêng.
Trong trại tỵ nạn, không phải chỉ có người Ðức coi khinh người Việt, mà những sắc dân khác cũng coi khinh hoặc ngán ngẩm người Việt. Vì người Việt Ðông Âu từng sinh ra và lớn lên trong chế độ cộng sản, họ bị nhiễm tính khí hiếu chiến, sắt máu. Họ sinh ra và lớn lên trong sự cai trị hà khắc của Cộng Sản độc tài, cho nên họ cũng chỉ biết cai trị nhau bằng hệ thống luật rừng mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé một cách rất cộng Sản. Các cô gái xinh đẹp, dù còn rất trẻ, nhưng cũng vì quyền lợi mà tự đặt mình vào hệ thống mafia một cách ăn ý với các tay anh chị có quyền lực. Họ xem mạng sống con người rẻ mạt. Khi xẩy ra một vụ đánh lộn trong trại tỵ nạn là có dính líu đến người Việt. Ðôi lúc vài chục người Việt có thể đánh cả năm bảy chục người Thổ, người Ấn. Vì người Việt Ðông Âu rất liều mạng, họ sẵn sàng gây đổ máu, nên hễ đánh nhau là họ thắng. Riêng những cuộc thanh trừng nhau giữa người Việt với người Việt thì được giữ kín tối đa. Tội ác đẫm máu vì lòng tham vô đáy và thói quen của người cộng sản Việt Nam trên nước Ðức nầy đã làm hoen ố hình ảnh người Việt Nam trong lòng người Ðông Ðức cũ và cả người Tây Ðức hôm nay. Vì thế mà người Ðức dần dần có thái độ lạnh giá, hoặc có ác cảm đối với người Việt định cư trong nước họ. Với những quan niệm và thói quen của người vô thần trong chế độ cộng sản, những người Việt nầy không mấy quan tâm đến thanh danh của dân tộc mình. Ðây là hậu quả của chủ nghĩa Tam Vô (vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo) đã ăn sâu trong máu của những người đã bị Cộng Sản đồng hóa. Họ cũng không ý thức về danh dự của chính bản thân họ nữa. Người nào có học hành để biết làm bộ giữ thể diện bên ngoài cũng là khá lắm rồi. Trong các trại tỵ nạn, người Việt Nam bị một số cán bộ Ðức nhìn bằng con mắt khinh miệt không cần che giấu. Ðể đáp lại sự khinh miệt đó, cán bộ cộng sản vận động ''tâm lý quần chúng'' bằng cách rỉ tai nửa đùa nửa thật rằng ''bọn tư bản luôn luôn khinh người nghèo, hãy lấy lại những gì nơi kẻ thù giai cấp''.
Tại trung tâm tỵ nạn Eissenhüttenstadt, cán bộ Ðức không cần gọi tên riêng người Việt tỵ nạn, họ chỉ gọi Việt Nam là đủ. Riêng người Việt thì không tự xưng mình là người Việt, nhưng tự xưng là ''Cộng''. Vì tâm trạng chung giữa người cán bộ Ðức và các trại viên, danh từ Việt Nam hàm chứa một ý nghĩa dơ bẩn, mọi rợ, dối trá, dã man. Phía sau trại Eissenhüttenstadt có một nhà kỷ luật để giam những người vi phạm nội qui trầm trọng. Có một lần, khi các tù nhân được ra phơi nắng, anh đếm được 19 người, trong đó có tới 6 người Việt Nam rồi. Tỷ lệ người Việt Nam bị giam trong nhà tù lúc nào cũng cao nhất so với các sắc dân khác.Trại Eissenhüttenstadt chứa được 500 người gồm hàng chục dân tộc khác nhau, nhưng người Việt chiếm khoảng 23% (hơn 100 người). Hầu hết người Việt dưới chế độ cộng sản Bắc Việt không có thói quen đọc báo ngoài luồng cộng sản. Hơn nữa trong các trại tỵ nạn, người Việt vẫn sợ những con mắt an ninh chìm của Cộng Sản khi đọc các sách báo chống cộng bằng tiếng Việt. Ai cũng biết thân phận mình là phải về nước trong nay mai, nên chỉ chăm chú kiếm tiền càng nhiều càng tốt; dù kiếm tiền bằng cách nào thì cũng là cách làm giầu ngoại tệ cho Ðảng, đồng thời tránh được những liên lụy chính trị, sau khi về nước không bị ghi vào sổ đen. Càng chú trọng kiếm tiền, họ càng khó học tiếng bản xứ, nên càng sống khép kín với thế giới riêng của họ. Họ vẫn giữ thói quen theo dõi, kềm kẹp và nịnh hót nhau. Họ vẫn có những sinh hoạt ''chi bộ đảng'' một cách kín đáo trong trại tỵ nạn. Rất nhiều người buôn bán thuốc lá đã từng là công an, cán bộ, đảng viên cộng sản trong nước Việt Nam. Cho nên người Việt từ miền Bắc đi theo đường dây mafia cộng sản qua đây, họ mang theo nguyên xi nếp sống, nếp nghĩ cộng sản.
Cuộc sống thông thường của họ là buôn thuốc lá lậu, ăn cắp trong các siêu thị, tổ chức các xe bán hàng lưu động để mua và bán hàng ăn cắp. Ðặc biệt là các băng đảng được gọi là băng bộ đội chuyên đi thu thuế và ăn cướp tài sản của những người buôn lậu, các nhà hàng Châu Á. Các băng đảng bộ đội nầy sử dụng vũ khí rất tinh nhuệ, họ thẳng tay trừng trị nhau rất lạnh lùng. Những người đứng đầu các băng đảng nầy đều là con cháu những ông lớn trong hệ thống trung ương đảng CSVN, hoặc ít nhất cũng là con cháu của những tay công an, cường hào đảng trị ở các địa phương miền trung như Quảng Bình, Thanh Hoá, Vinh, Nghệ Tĩnh. Dưới chế độ cộng sản, người ta quen sống với luật rừng, nên qua đây họ không mấy quan tâm đến luật pháp tây phương. Họ lợi dụng luật pháp Ðức tối đa để khai thác phúc lợi cho mình, và trong nội bộ người Việt với nhau, họ cư xử bằng luật rừng. Những vụ tranh giành địa giới làm ăn giữa các băng đảng đã gây đổ máu quá nhiều lần trên nước Ðức khiến cho xã hội Ðức nhức nhối. Ngay trong trại tỵ nạn, hệ thống làm ăn của mafia cộng sản được tổ chức khá chặt chẽ. Dân buôn lậu thà chịu chết dưới tay những băng đảng luật rừng chứ không quen sống theo luật pháp của nước Ðức, vì mục đích sau cùng của họ là kiếm tiền bằng mọi cách, sau đó về lại Việt Nam chứ không phải ở đây để mà tôn trọng luật lệ của nước ngoài. Nếu ai không tuân theo luật rừng của Mafia cộng sản tại hải ngoại, thân nhân họ tại Việt Nam sẽ gánh chịu hậu quả do các chi bộ đảng uỷ địa phương tại quê nhà mang đến. Ví dụ một người buôn lậu đang trốn thoát ngoài mạng lưới kềm tỏa của mafia cộng sản tại vùng Ðông Ðức cũ, băng đảng ấy vẫn có đường dây dò tin tức của người đó về tới Việt Nam. Một báo cáo gởi về Việt Nam nói rằng người đó đã ''phản quốc'', thế là gia đình phải chịu nhiều sự chì chiết, trù dập dưới chính quyền địa phương cho đến bao giờ họ khuyên thân nhân của họ ra trình diện đầu thú với băng đảng mafia ở nước ngoài để chịu một sự trừng trị nào đó, thì thân nhân trong nước mới ''được yên''.
Các tòa đại sứ Việt Cộng tại Ðức và tại những nước lân cận là những trạm cung ứng các giấy tờ giả mạo như khai sinh giả, hôn thú giả, chứng nhận độc thân giả, giấy phóng thích giả, lệnh truy nã giả... Cũng như các phương tiện điện thoại lậu, đổi và chuyển tiền lậu, rửa tiền cho hàng ngàn phi vụ làm ăn bất chính trong cộng đồng mafia cộng sản. Một vài trăm Mác là có thể mua được một tờ giấy ''lệnh truy nã'' của cảnh sát Việt Nam để được nộp vào hồ sơ tỵ nạn nhằm nhờ luật sư kéo dài thời gian tạm dung. Maifa cộng sản có cả một hệ thống làm giấy tờ cư trú giả, passport giả cho người Việt sống tại các nước cộng sản cũ, nhất là Tiệp. Những người có giấy tờ giả nầy lọt vào Ðức làm ăn, nếu bị bắt thì chỉ bị đuổi về Tiệp, Ba-Lan. Bất cứ một giấy tờ gì giúp cho người Việt Ðông Âu kéo dài cuộc sống tại Ðức đều có thể mua được ở hải ngoại. Thậm chí người đang bị Ðức yêu cầu phía Việt Nam thẩm tra tên tuổi, nhưng muốn cho việc thẩm tra chậm trễ để kéo dài thời gian lưu lại ở Ðức, mafia cộng sản có cả một đường dây điều động về Việt Nam để chính quyền địa phương điều tra chậm lại. Muốn được kéo dài thêm 6 tháng ''chưa điều tra ra'' tên tuổi của mình, đương sự phải chi 500 Mác cho đường giây nầy.
Trong các cuộc tranh chấp làm ăn, nhiều người Việt Nam mất tích vì bị thanh toán, những xác chết nầy thường không kịp chôn sâu nên người ta tìm thấy được. Thói quen hận thù và chiến tranh do cộng sản nhồi sọ đã biến những thế hệ Việt Nam sau nầy trở nên vô kỷ luật, dối trá, và độc ác, sẳn sàng gây đổ máu vì vài chút lợi nhỏ nhoi. Cũng có một số người thật sự muốn được tỵ nạn lâu dài, nên cố tham gia một vài sinh hoạt ''chống cộng, đòi hỏi nhân quyền'' cho Việt Nam.v.v. Nhằm kiếm thêm vài tờ giấy và tấm ảnh ''đứng trước lá cờ VNCH'' để làm ''bằng chứng chống cộng'' với luật pháp bản xứ. Trong số nầy không làm sao thiếu mặt những tay cộng sản gộc trá hình trà trộn làm công tác phản gián. Theo sự hướng dẫn sẵn từ trong hệ thống mafia cộng sản tại Việt Nam, tất cả những người buôn lậu qua đây đều khai tên tuổi và địa chỉ giả mạo. Vì làm như thế để giúp chính phủ cộng sản Việt Nam có lý do kéo dài thời gian xác minh tên tuổi địa chỉ khi nước Ðức yêu cầu. Càng kéo dài thời gian xác minh, càng được ở lại Ðức lâu hơn để buôn lậu. Ðây là lý do khiến cho chính phủ Ðức không thể đưa hàng chục ngàn người Việt Nam về nước, vì chính phủ Việt Nam vẫn khư khư cho rằng VN không có tên những người công dân đó, mặc dù họ thừa biết lý lịch từng người một . Ở đây không phải một con sâu làm rầu nồi canh nữa, mà cả một ổ sâu làm hỏng hết nồi canh. Thật ra, nếu chỉ nói đảng Cộng Sản là mafia không thôi thì còn oan cho Cộng Sản, theo anh nghĩ họ đã bị quỷ hà hơi để làm việc ác.
Chế độ cai trị tàn ác của Cộng Sản đã làm cho nhiều người trở nên chai lỳ, xem việc ác là chuyện thông thường. Nếu ai nói lên nỗi thương tâm của mình đối với những người Việt Ðông Âu ấy, nhiều khi cả nạn nhân lẫn tác nhân tội ác CS đều cảm thấy xa lạ với ý kiến của người ấy. Có khi họ còn trách ngược lại là vạch áo cho người ngoài xem lưng. Với quan niệm sống của người cộng sản thì trộm cướp, giết người có thể biện hộ bằng cách trưng dẫn các mục đích ích kỷ. Ví dụ như câu cửa miệng của người Việt Ðông Âu là ''chế độ tư bản từng bóc lột của dân nghèo, chúng ta phải thu lại những gì mà tư bản đã tước đoạt của giai cấp chúng ta. Ta nghèo, qua đây mà không kiếm tiền thì kiếm gì đây? Ai thương mình bằng tiền thương mình? Ta Ăn cắp chừng đó thấm tháp gì với sự bóc lột của bọn tư bản suốt mấy trăm năm! '' Họ có những câu cao dao vô liêm sỹ như:
Tổ quốc giống như tổ cò
Tổ quốc nghèo đói ta mò qua đây
Bao giờ tổ quốc như Tây
Tổ quốc không gọi ta đây cũng về.
Hay là:
Chung quy cũng tại vua Hùng
Sinh ra toàn những thằng khùng thằng điên
Thằng khôn thì nó vượt biên
Ðể lại toàn những thằng điên thằng khùng.
Vì thấy những câu ca dao trên chỉ nhằm trách móc tổ tiên nước Việt mà không nói thẳng nguyên nhân chính là do Hồ Chí Minh và đảng CSVN trực tiếp gây nên, anh phải sửa lại dùm họ như sau:
Chung quy cũng tại giặc Hồ
Sản xuất ra cả một lô thằng khùng
Nước nhà tham nhũng lung tung
Quốc doanh buôn lậu như khùng như điên
Chưa vừa, giả bộ vượt biên
Ra ngoài cướp giựt như điên như khùng.
Những câu ca dao trên đây cho chúng ta thấy họ đã trút sự bại hoại của đảng Cộng Sản vào trong giòng dõi dân tộc (Vua Hùng và Tổ Quốc). Họ bày tỏ sự bất mãn của họ đối với tổ quốc chứ không dám công khai bày tỏ sự bất mãn đối với đảng CSVN. Sống trong chế độ cộng sản, con người có thể chà đạp truyền thống dân tộc, có thể coi rẻ tổ quốc, có thể nhạo báng tôn giáo, nhưng đụng tới Ðảng CS là bị trừng trị ngay! ''Ðược mùa, hô Ðảng thông minh- Mất mùa, hô hoán tội tình thiên nhiên''
Con cháu cộng sản ngày nay giống như nhân vật A Tử trong tập truyện Lục Mạch Thần Kiếm của Kim Dung. Con cháu người dân thì trở nên giống như nhân vật Du Thản Chi, người đồng trang lứa với A Tử trong sách nầy. A Tử là một thiếu nữ xinh đẹp có bà mẹ gian hùng hiểm độc. A Tử chưa bao giờ được sống với người lương thiện. Khi nghĩ ra những trò chơi rất độc ác đối với cậu bé Du Thản Chi, lòng cô ta chẳng những không một chút ray rứt mà lại còn cảm thấy vui thú, kiêu hãnh về những trò chơi ''giầu trí tưởng tưởng tượng'' và tàn nhẫn của mình. Cậu thiếu niên Du Thản Chi thì chưa bao giờ được ai thương yêu, chiều chuộng; chưa bao giờ được nếm trải sự công bình bác ái. Từ khi còn bé, cậu quen chịu bất công, đau khổ đến nỗi coi đó là ''lẽ sống bình thường'' không cần thắc mắc. Não trạng đa số của thế hệ trẻ ở Việt Nam ngày nay trong chế độ cộng sản cũng thế đó. Họ chưa bao giờ được tự do nên không xem sự độc tài bất công là một tội ác. Họ chưa bao giờ thấy công bình, nên xem bất công là việc đương nhiên giữa đời. Họ chưa bao giờ được hạnh phúc, cho nên họ cam chịu sự đau khổ miễn là được sống. Cá lớn nuốt cá bé, thú lớn ăn thú nhỏ là nếp suy nghĩ bình thường trong xã hội cộng sản vô thần. Những thế hệ càng về sau càng bị ''nhiễm xạ'' cộng sản một cách sâu sắc hơn các thế hệ trước. Người cộng sản không chấp nhận thực thể tương quan sinh tồn, vì họ bị nhồi sọ triết lý đấu tranh sinh tồn. Anh tự nghĩ, nếu mình bị sinh ra và lớn lên trong hệ thống xã hội cộng sản, không làm sao mình tránh khỏi những chủng tử vô thần gian ác như họ. Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng là thế.
Sau hơn 23 năm chứng kiến tội ác của chế độ cộng sản tại Việt Nam, khi qua Ðức tỵ nạn, anh được chuyển đến trại Eissenhüttenstadt. Bắt đầu từ đây, anh gặp cả ngàn người Việt Nam đã từng là đảng viên đảng CS, cán bộ, thường dân đã từng đi theo cái chế độ quỷ quyệt ấy cũng qua đây xin ''tỵ nạn''. Họ là những người được CS cho đi lao động, học tập, công tác, du lịch buôn lậu trong đường dây mafia của CSVN qua ngõ Ðông Âu, nên thường được gọi là những người Việt Ðông Âu.
Ngày nay các nước cộng sản Ðông âu đã sụp đổ, thị trường xuất khẩu lao động (bán cu ly) không còn nhộn nhịp nữa, nhưng nhiều người Việt vẫn tuần tự xâm nhập vào Ðức qua nhiều ngõ. Thông thường nhất là đi công tác trá hình, hoặc đi du lịch qua các nước Nga, Tiệp, Ba lan; từ đó họ được đường dây mafia dẫn bộ vào Ðức sau khi cất giữ giấy thông hành chính thức của họ. Gần đây nhất, những người Việt được tổ chức đi du lịch tập thể đến dự hội chợ tại các nước Âu Châu như Pháp, Hà Lan, Bỉ. Ví dụ tháng 9/99 một chuyến bay chở 45 người Việt qua dự hội chợ tại Bỉ. Trong số 45 người, đã có 38 người được mafia cộng đón tại Bỉ, phân tán họ theo các ngõ ngách đường bộ để đưa vào nước Ðức xin tỵ nạn ở những tiểu bang khác nhau sau khi lấy lại giấy thông hành để biến họ thành người không có một miếng giấy tùy thân. Cũng vào thời điểm như trên, một chuyến du lịch tập thể khác từ Vệt Nam đã nhập cảnh Hà Lan và được mafia CSVN thu lại hộ chiếu rồi đưa vào nước Ðức khai tên tuổi giả để được tỵ nạn. Những chuyến đi lẽ tẻ từng nhóm nhỏ khác qua đường Ả rập, Thái Lan, Pháp, Tây Ban Nha.v.v.Ðều lần lượt được đưa vào nước Ðức. Vì chỉ nước Ðức là nước có luật dành cho người tỵ nạn. Chính phủ CSVN đã ký hiệp ước với chính phủ Ðức để tuần tự nhận lại ''nạn nhân vượt biên'' của họ, đồng thời cũng sử dụng bàn tay đen mafia cộng sản để tổ chức tiếp cho các ''nạn nhân'' mới ra đi. Có người bị Ðức trả về Việt Nam, chỉ vài tuần sau lại có mặt ở nước Ðức. Ðây là một chính sách bán dân mình một cách vô trách nhiệm của đảng CSVN.
Chúng ta thử làm một bài tính nhỏ, trung bình mỗi năm mafia cộng sản đưa ra khỏi nước Việt Nam chừng 10.000 người, xem họ thâu được bao nhiêu ngoại tệ vào trong tay cho Ðảng và các đảng viên trực thuộc? Ðổ đồng mỗi người chi ra 7.000. US$ cho đảng làm mọi thủ tục từ A đến Z. Vậy đảng CSVN đã thu vào 70.000.000.US$. Trong số tiền nầy, họ trả các chi phí máy bay hết 20.000.000.US$, còn 50.000.000.UD$ được vào ngân quỷ kinh tài của đảng CSVN và vào túi các đảng viên tham nhũng. Chưa đủ, CSVN ăn tiền cả 2 đầu. Ðầu ra, họ nhận tiền những ngưởi vượt biên do họ xúi dục và tổ chức. Ðầu vào, họ nhận tiền của chính phủ Ðức để tái ổn định cuộc sống cho những người do chính phủ Ðức trả về. Bao lâu những người ''tỵ nạn'' nầy còn được ở lại Ðức kiếm tiền thì đảng CSVN còn thu ngoại tệ dài dài. Những người ra đi đã trả một số tiền tham nhũng cao như thế, khi đến Ðức, họ phải tìm đủ mọi cách để kiếm cho bằng được cả vốn lẫn lời trước khi bị đuổi về Việt Nam. Quơ được đồng nào vào trong tay, họ chuyển về Việt Nam ngay. Ðó, một trong những nguồn ngoại tệ của đảng CSVN là bán rẻ người dân của mình ra ngoài mà thông thường chúng ta gọi là đem con bỏ chợ, nhưng tại Việt Nam hiện nay, đây là chính sách xuất khẩu lao động của Ðảng. Dù sao, những người ''được xuất ngoại'' nầy cũng có một chút ''máu mặt'' hơn toàn bộ dân nghèo bị bịt cả tai mắt mũi họng trong nước!
Khi anh mới nhập trại, những người Việt Ðông Âu tưởng anh cũng ra đi như họ. Nhờ vậy anh được tiếp xúc, nói chuyện gần như là thành phần nội bộ với nhau trong thời gian đầu. Qua những tiếp xúc, quan sát, anh có thể phân loại họ ra thành những nhóm khác nhau:
Những công an, cán bộ, đảng viên đã bị mang tiếng tham ô, buôn lậu, giết người, tranh chấp quyền lợi... Cuối cùng bị thất thế. Ðáng ra những nguời nầy đã bị những phe cánh tham những mạnh hơn đem bỏ tù, hoặc đang bị truy tố ra tòa, hay ít nhất cũng thất sủng, mất quyền lợi... Nhưng để tránh bớt tiếng xấu cho Ðảng CS trong nước, đường dây mafia cộng sản làm giấy tờ cho họ ra nước ngoài. Khi ra nước ngoài, họ có cơ hội đoái công chuộc tội. Họ trở nên những tay sát thủ, những công an chìm, những tay anh chị, những người làm công tác kinh tài vừa cho cá nhân, vừa cho Ðảng. Họ sống như kịch trên sân khấu. Ðôi khi trong câu chuyện nhậu nhẹt trà dư tửu hậu, họ tự vẽ rắn vẽ rồng những huyền thoại chính trị của mình. Làm như thế là họ muốn cho đàn em thấy rằng họ được Ðảng cho đóng vai ''khổ nhục kế'' để ra ngoài làm công tác an ninh mật. (Trong số họ phải có người đóng vai khổ nhục kế chính cống). Nhưng thật hư lẫn lộn rất khó phân biệt. Những tay cán bộ nầy tỏ ra muốn giữ nề nếp sinh hoạt Ðảng. Họ bày vẽ cho nhau cách trả lời phỏng vấn để nêu rõ những lý do tỵ nạn một cách hợp lý đối với luật pháp nước Ðức. Khi sinh hoạt với nhau, họ muốn tỏ ra ta đây được Ðảng tín nhiệm cho ra nước ngoài, nhưng khi được phỏng vấn, họ tỏ ra là người bị chế độ cộng sản bách hại nên phải bỏ xứ đi tìm tự do! Miệng lưỡi người cộng sản hô hoán theo chiều nào cũng tỏ ra ''hùng hồn'' hết cả! Chính những người nầy là cánh tay nối dài của thị trường buôn bán mọi thứ giấy tờ để có lý do ở lại Ðức. Bàn tay nầy được gọi là ''dịch vụ''. Không ai không biết bàn tay nầy được điều khiển bởi các văn phòng sứ quán VC ở nhiều nước khác nhau, mà tập trung nhất là 4 nước Ðức, Nga, Tiệp, Ba-lan.
Một số con em các ông lớn trong guồng máy Ðảng và chính phủ cộng sản đã bị nghiện ngập, hư đốn, phạm pháp như hiếp dâm, trộm cướp, giết người, được cha mẹ dùng thế lực cho ra nước ngoài để tạm thời tránh tiếng xấu có hại đến thân thế, chức vụ quyền lợi của mình. Các em nầy rất giầu có. Chúng tiêu xài như những ông hoàng. Chúng có sẵn người lớn tuổi chăm sóc hoặc để dựa hơi vật chất, hoặc để tạo vây cánh làm ăn. Các em nầy không thiếu một thứ gì cả. Chúng ở trong trại tỵ nạn, nhưng có xe đưa đón, có gái chiều chuộng. Có đứa điện thoại về nhà hàng ngày và nhỏng nhẻo như những cậu ấm. Những đứa nầy sẽ được qua Nga, Tiệp hoặc Ba Lan ăn học sau khi các thủ tục cần thiết tại các nước ấy được làm xong. Hiện nay, Nga, Tiệp, Ba lan là những nước có nhiều tổ chức mafia nhất thế giới. Mafia vũ khí, maifa bạch phiến, mafia du học lậu, mafia buôn người...Hễ có tiền, cái gì bất hợp pháp cũng làm cho hợp pháp được tại các nước ấy. Anh có cảm tưởng rằng những đảng viên cộng sản cũ đang biến thành đảng viên mafia để vừa cướp của giết người vừa gây rối loạn xã hội trong các nước không cộng sản.
Những tù nhân loại hung dữ đã vượt ngục qua đây làm anh hùng. Số người nầy tuy ít nhưng khá nổi cộm. Có một vài anh trông rất trẻ, nhưng khi bước vào những trận thư hùng, họ lạnh lùng chiến đấu rất chai lỳ. Họ đã từng trải kinh nghiệm nhà tù cộng sản ở Việt Nam. Ðối với những tay anh chị nầy thì số năm tù tội và số lần vượt ngục trong nước của họ là tiêu chuẩn để được ''nể nang'' tại môi trường trấn lột hải ngoại. Họ cũng là những tay sát thủ xuất nhập bất kỳ. Sống trong trại tỵ nạn, nhưng họ có những đàn em lo trà nước đàng hoàng. Có khi chỉ nhập trại để nghiên cứu tình hình, sau đó họ thi hành một nhiệm vụ máu xương nào đó rồi tức khắc biến qua một nước khác ngay. Có những người đã sống ngoài vòng pháp luật tại Ðức khá lâu rồi, cho đến khi bị kẹt vì một cái gì đó, họ mới vào trại tỵ nạn.
Thành phần nầy đã được đi lao động quốc tế ở Nga, Ba lan, Tiệp, Hung...Họ đã quen sống ở nước ngoài nên không thích về VN nữa. Hiện nay các nước trên đang chuyển mình lột bỏ thi hài Xã Hội Chủ Nghĩa để hòa nhập vào thế giới tự do. Ở các nước đó không dễ kiếm tiền như ở Ðức, họ qua Ðức làm ăn theo đường dây thuốc lá lậu, và nhiều dịch vụ làm thuê làm mướn, làm hôn tú giả... Phía sau bức màn tỵ nạn. Thành phần nầy có đường dây liên lạc với tòa đại sứ Việt cộng khá chặt chẽ. Ðối với họ, tiền và hưởng lạc là trên hết. Thành phần nầy rất thành thuộc các mánh lới làm ăn buôn bán ở các nước Ðông Âu. Ngày xưa họ cần cù lao động để kiếm tiền Ðảng CSVN. Nay họ có cái vốn hiểu biết cách làm ăn ở nước ngoài để tiếp tục xoay xở làm ăn cho chính mình. Họ biết thích nghi khéo léo đến nỗi người ta lầm tưởng họ là thuyền nhân. Nếu phải về nước, những người nầy thường được hưởng những ưu tiên, vì họ là thành phần cán bộ hợp tác lao động quốc tế. Trước khi ra đi, họ đã là những cán bộ đảng viên trong guồng máy biên chế của đảng CSVN.
Những người đã được chính thức lao động tại Ðông Ðức cũ. Trước khi bức tường sụp đổ, họ là thành phần lao động chân chính, rất chịu khó làm việc. Sau khi bức tường sụp đổ, một số ở lại, một số lãnh tiền bồi thường về quê, nhưng sau nầy tiếc rẻ nên quay trở lại Ðức bằng đường dây của mafia. Họ được gọi là Ðức Quay. Sống ở Ðức, họ có cơ sở buôn bán làm ăn như thuốc lá, bán áo quần, buôn bán những hàng ăn cắp. Nhóm người Việt nầy hiện nay khá đông. Trong nhóm nầy, có một số người đang giữ được nề nếp làm ăn tương đối đàng hoàng, vì họ là những thợ khách (gastarbeiter) được phép ở lại nước Ðức hợp pháp, nếu vi phạm luật pháp có thể bị đuổi về. Nghề nghiệp dễ hội nhập nhất đối với họ là bồi bếp. Ông tổ nghề bồi bếp hải ngoại của họ là Hồ Chí Minh.
Thành phần bị thất thế trong xã hội cộng sản. Họ có thể cũng là những đảng viên, cán bộ trong nước, nhưng không còn cơ may tiến thân nữa nên trở thành những người bất mãn chế độ cộng sản qua đây làm ăn là chính, nhưng cũng xin tỵ nạn để họa may được sống ở Ðức lâu dài. Thành phần nầy cố gắng tham gia các tổ chức chính trị chống Cộng do những thuyền nhân tổ chức. Họ cũng quy tụ nhau từng nhóm nhỏ chừng 5,7 người để tổ chức làm báo chống Cộng Sản. Ra một tờ báo, hoặc thành lập một tổ chức có tính cách văn hóa chính trị tại Cộng Hòa Liên Bang Ðức cũng đơn giản như tổ chức một tổ hợp dịch vụ rửa xe gắn máy tại VN hiện nay. Trong số nầy cũng có những người đã chán ngấy chế độ CS, biết rõ mọi ngõ ngách tội ác CS, nhưng họ không thật sự tham gia bất cứ một tổ chức chống cộng nào; hoặc vì tính cầu an, hoặc vì mặc cảm chính trị, hoặc vì không tìm thấy một tổ chức chống cộng nào đáng cho họ tin tưởng để dấn thân. Có một số người làm bộ đi theo một tôn giáo hay làm bộ chống cộng cho đến khi được giấy tờ ở lại, họ quất ngựa tàu cau đi kiếm tiền để hưởng lạc.
Thành phần bị thất bại về tình cảm gia đình, hay công việc làm ăn bị sạt nghiệp, vỡ nợ, có thể là những nạn nhân hoặc tác nhân của các vụ bể hụi, dựt hụi trong nước, những người nầy được mafia cộng sản xúi qua đây vừa để trốn thoát khỏi cảnh vỡ nợ ở quê nhà, vừa có thể hy vọng phiêu lưu vào những manh mối làm ăn mới để gỡ gạt. Cũng có những người bị xúi dục qua đây, họ tưởng rằng qua đây để lượm ''mưa vàng''(hốt bạc) một cách dễ dàng như những năm 1989-1993. Khi chạm phải một thực tế phủ phàng như hiện nay, họ dở sống dở chết. Con đường cùng là phải liều.
Gái liều thân, trai liều mạng.
Một liều, ba bảy cũng liều.
Càng sai Cảng sửa, sửa nhiều càng sai !
Ðây là những người CS chính cống đã vướng những bịnh nan y ở VN. Nhóm nầy rất ít, nhưng hễ gặp là hiểu ra ngay. Họ được đường dây mafia CSVN gợi ý qua đây xin tỵ nạn, vừa để kiếm tiền vừa được Ðức chữa bịnh miễn phí. Trong số nầy cũng có những người bị bịnh sẵn mà chưa được khám kỹ, khi qua Ðức thăm thân nhân với thông hành du lịch, trong thời gian ở lại Ðức, họ phịa một vài lý do ''chống cộng'' để vào trại xin tỵ nạn; nhằm mục đích được chữa bịnh khỏi tốn tiền; sau khi chữa xong, họ vứt bỏ cái mặt nạ tỵ nạn và xin về nước ngay. Cách chữa bịnh nầy vừa rẻ vừa bảo đảm hơn ở Việt Nam nhiều. Ðây là những người có mối quan hệ gần gũi với mafia CSVN nên được chỉ dẫn cách mánh mung ''nhân đạo'' để bảo vệ cho mạng sống của mình bằng khả năng y khoa hiện đại của nước Ðức mà khỏi tốn kém viện phí, y phí.
Nhóm nầy là những người đang gặp các khó khăn kỳ cục nhất. Có người đã bị trục xuất về Việt Nam, nhưng vẫn còn trốn ở lại, sống hoàn toàn bất hợp pháp tại Ðức. Họ mất hết tất cả quyền lợi, và chỉ sống ngoài vòng pháp luật cho đến bao giờ bị bắt. Dĩ nhiên thái độ trốn ở lại là do họ tự chọn lựa khi tự thấy rằng thà trốn ở lại vẫn hơn trở về Việt Nam! Mục đích thông thường nhất của họ cũng chỉ đơn giản là kiếm tiền. Ngoài ra lẻ tẻ có những trường hợp thật thương tâm như vợ chồng thật đã có con cái, nhưng không đủ giấy tờ hợp lệ, khi một trong hai người bị trục xuất, họ không thể xa lìa nhau được, nên đành phải trốn lại. Ở Ðức, nghĩa vợ chồng hoàn toàn dựa trên tờ giấy hôn thú. Dù sinh ra bao nhiêu con cái với nhau, nhưng không có tờ hôn thú thì cũng vô nghĩa. Vì vậy khi người cha bị trục xuất, những đứa con chịu mồ côi cha. Mẹ của chúng gấp rút có một người đàn ông khác điền vào. Những đứa trẻ nầy sớm muộn cũng sa vào hang ổ nghiện ngập và tội phạm vị thành niên.
Anh biết một trường hợp cả hai vợ chồng và một đứa con đã qua đây. Ba người vào đến nước Ðức ba thời điểm khác nhau. Nhưng cả ba người đều khai tên tuổi giả. Với những tên tuổi giả không chứng tỏ mối liên hệ bà con ruột thịt của họ, trước luật pháp của Ðức, họ bị xem là không bà con gì với nhau cả, vì thế họ không được xếp vào một gia đình cần được sống chung. Mỗi người được phân bố vào một trại khác và sống xa nhau hàng mấy trăm cây số. Khi người chồng bị trục xuất, ông ta vì thương vợ con mà phải trốn lại. Cuộc sống của hai vợ chồng nầy đã xẩy ra những đau buồn rất lớn, ảnh hưởng lên đứa con. Người con trai nầy đã trên 20 tuổi, nhưng khai nhỏ lại để được hưởng quyền lợi vị thành niên. Một thời gian người con trai bị bịnh tâm thần nặng, người mẹ bị trục xuất về. Vì thương con, người mẹ cũng phải trốn ở lại. Hai mẹ con thật mà trước pháp luật thì không phải mẹ con! Cha con thật nhưng cũng biến thành không phải cha con. Vợ chồng thật, nhưng trên giấy tờ không khai hôn thú để mỗi người tìm cơ hội làm hôn thú với Tây hòng được ở lại. Cuối cùng cả gia đình đổ vở. Ðứa con quá đau khổ đến nỗi bị bịnh tâm thần. Trong khi đó, những trường hợp khác là anh chị em ruột, nhưng đã có người được đủ điều kiện ở lại, người kia chưa được. Do đó họ phải cưới nhau để cả hai cùng được ở lại. Anh chị em ruột mà cưới nhau được, có nghĩa là tất cả khai sinh, giấy chứng nhận độc thân tại Việt Nam... Ðều được mafia CSVN làm giả hết. Anh gặp một trường hợp cha con làm hôn thú với nhau nữa, nhưng sau đó một tai họa kinh khủng đã xẩy ra khiến cho đứa con phải đi trốn. Cô ta phải tự bảo vệ mình bằng cách sống với một người đàn ông khác để sinh con, dù chưa kịp yêu. May mắn thay, giấy tờ ở lại của cô nầy đã được ổn định; chỉ còn vết thương tâm lý nữa mà thôi! Nhưng vết thương tâm lý rất trầm trọng. Ðó là sự đổ vỡ của cha và mẹ cô gái ấy đã đưa đến nhưng tai họa cay đắng kèm theo. Nếu không tìm về với Chúa thật lòng để được Người tha thứ và chữa trị, những người nầy sẽ đem theo vết thương của họ xuống âm phủ. Ai hiểu nổi vết thương tâm lý của gia đình nầy? Họ không bao giờ có thể trốn chạy vết thương của họ trừ khi đến với Chúa Jesus trên thập tự giá? Trên thực tế, anh đã gặp rất nhiều người Việt Nam như thế, nhưng đã tìm thấy hạnh phúc trong Chúa Jesus. Dù đã trải qua bao nhiêu tai họa, bao nhiêu lỗi lầm, nhưng khi thật sự trở về ăn năn với Chúa để từ bỏ con người cũ, họ đã được chữa lành những vết thương nội tâm và được tái sinh thành những con người mới bình an phước hạnh. Họ luôn luôn có những bài giảng Kinh Thánh và thánh ca bỏ trong xe, trong nhà để nghe.
Ðây là một nhóm đặc biệt, nếu không để ý không thể nào nhận ra nét đặc biệt của họ đâu. Nhóm nầy gồm những người Việt Nam thuần túy miền Bắc, con ông cháu cha, hoặc cán bộ đã qua Ðức bằng nhiều cách khác nhau. Nổi cộm nhất là những sinh viên được du học tại đức. Họ đã được giấy tở ở lại Ðức và làm ăn hợp pháp. Họ có thế lực đặc biệt, quy tụ trong hai khu thương mại người Việt lớn nhất tại Ðông Berlin. Hai khu chợ nầy sầm uất, giầu có, làm ăn tấp nập, hàng trăm quán xá. Nơi đây có cả món thịt cầy thơm lựng từ Hà Nội mang qua (dĩ nhiên là không bán công khai).Theo anh, đây là hệ thống rửa tiền tham nhũng của các nhân viên trung ương đảng CSVN. Những ai muốn chuyển tiền về VN chỉ cần tìm những người nầy để giao tiền cho họ; khoảng một ngày sau thân nhân ở VN nhận được ngay, hoặc vài giờ sau là thân nhân của người chuyển tiền đã nhận được tiền tại Saigon, Hà Nội . Có lẽ đây là một đường dây chuyển tiền tham nhũng của các ông lớn ra nước ngoài để rửa. Anh vô tình khám phá được một trường hợp đặc biệt ở đây. Một người trẻ tuổi rất có thế lực trong hai khu chợ nầy. Cha mẹ anh ta là những đảng viên cộng sản, đang đứng đầu một công ty mể cốc quốc doanh, và một công ty du lịch ở VN. Hiện anh ta đang tỵ nạn ở Ðức. Giấy tờ hợp lệ của anh ta chỉ là một tờ tạm dung (Duldung) như nhiều người Việt Nam khác trong trại. Nhưng anh nầy không bao giờ ở trong trại. Không bao giờ lãnh phiếu trợ cấp mua thức ăn. Tuy chỉ có một tờ Duldung, nhưng anh ta sống nhởn nhơ ngoài trại với hai thẻ thông hành, một cái mang quốc tịch của một nước Cộng Sản Ðông Âu cũ, và một thông hành được tỵ nạn dài hạn theo điều luật 51 của Ðức. Chắc chắn 2 thông hành nầy đều là giả mạo. Anh ta đi một chiếc xe Mercides loại xịn. Nhóm 10 nầy là thành phần khó xâm nhập nhất và nếu ai viết rõ quá, có thể gặp nguy hiểm. Cũng xung quanh nhóm làm ăn lớn nầy, những đường dây làm thông hành lậu để qua Mỹ, Úc được mớm với giá từ 20.000DM hoặc 15.000USD cho một người qua tới Mỹ hay Úc. Nghe nói đi Cananda thì rẻ hơn. Cũng có thể đi dưới hình thức một người Tàu, nếu biết tiếng Tàu là rất hay! Anh đã biết một vài trường hợp người ta qua đến Mỹ, nhưng không thể làm được giấy tờ giả dễ dàng để sống ở Mỹ nên đành phải quay về sống trong trại tỵ nạn Ðức tỉnh bơ. Thế chưa đủ, những người nầy thỉnh thoảng về thăm Việt Nam bằng con đường qua Balan, Nga và Tiệp. Nghĩa là một anh VC có tiền là có thể đi du lịch khắp thế giới một cách hợp pháp hoặc bất hợp pháp bằng những đường dây khác nhau, sau đó về trại tỵ nạn Ðức lãnh tiền nhân đạo một cách khiêm tốn.
Trừ những người trong nhóm 10, đang buôn bán tấp nập sầm uất, hầu hết mấy chục ngàn người Việt thuộc các nhóm nêu trên đều bị Ðức từ chối không cho tỵ nạn. Họ chỉ có tờ giấy tạm dung sau khi đã bị bác đơn xin tỵ nạn. Ðáng lẽ họ bị trả về Việt Nam, nhưng vì hiệp ước giữa hai phía Ðức và CSVN vẫn còn bị kẹt, chưa thực hiện được. Sau khi lùa dân mình ra nước ngoài kiếm ngoại tệ, CSVN sợ bị quốc tế tố cáo về tội lùa dân ra ngoài, có thể dẫn đến những bất lợi về chính trị và ngoại giao. Trong những năm vừa qua, CSVN ký một hiệp ước với Ðức để nhận tiền tiếp đón người Việt về nước. CSVN ký hiệp ước bằng bàn tay Chí Phèo, nhưng khi thực thi hiệp ước thì lại áp dụng kế hoạch của thằng Cuội. Những mánh lới ngoại giao thiếu thành thật của chính phủ Việt Cộng nhằm mục đích lùa dân bất hảo ra ngoài giống như liệng rác qua nhà hàng xóm rất là vô liêm sỹ. Tuy chính phủ Ðức biết rõ điều nầy, nhưng không làm gì hơn được (lập trường trước sau như một của Cộng Sản là nhất lý nhì lỳ), nên Ðức đành nuôi mấy chục ngàn người Việt như mẹ gà nuôi con vịt. Dần dần người Ðức nhìn mấy chục ngàn người Việt như một gánh nặng kinh tế xã hội hơn là gánh nặng nhân đạo và nhân quyền. Hầu hết những người dân Ðức mà anh được tiếp xúc đều than thở rằng ''chúng tôi đã đóng thuế quá nặng để phải nuôi những người ngoại quốc ăn không ngồi rồi và gây rối xã hội ''. Ðặt mình vào địa vị người bản xứ, anh nghĩ họ có lý; dù nhân đạo đến mấy cũng khó mà chấp nhận nuôi không những cục nợ vô định nầy. Tuy nhiên những nạn nhân đau đớn nhất đang bị hại là những người Việt Nam trót nghe theo mafia CSVN qua đây sống lêu bêu không có chút hy vọng cho tương lai. Nhìn vào cảnh trạng người Việt trong các trại tỵ nạn Ðức, anh thấy cả hai chính phủ Ðức & Việt đều kèn cựa muốn rửa tay phủi bụi cho mình hơn là vì nghĩa cử nhân loại. Chính phủ Ðức là một nhà giàu kiểu Bá Kiến bị Chí Phèo CSVN treo cái giá sỹ diện. Chính những nước tiến bộ trong thế giới tự do không thật sự tôn trọng quyền con người bằng quyền lợi quốc gia cục bộ của họ, nên CSVN thừa nước đục thả câu. Do đó tiếng nói nhân quyền từ nơi miệng các nhà lãnh đạo Phương Tây không còn trọng lượng nữa. Nhưng dầu sao các nước Phương Tây, mà tiêu biểu nhất là nước Ðức, đã chịu đựng quá nhiều về gánh nặng người tỵ nạn phức tạp nầy. Không riêng gì người Việt Nam mà còn cả mấy chục sắc dân khác từ các vùng Ả rập, Phi Châu, Á Châu đang mỗi ngày vào đất Ðức. Phần đông người tỵ nạn là những người có gai gốc, tỳ vết sứt mẻ trong xã hội loài người. Nói chung, họ ít có tinh thần kỷ luật, thiếu tự trọng, không biết giữ vệ sinh chung, đặc biệt là họ cần khai thác luật pháp của nước Ðức hơn là tôn trọng luật pháp ấy. Do đó sự nuôi ăn, nuôi ở nhiều trăm ngàn người tỵ nạn như thế là cả một mối ''nợ người'' bất đắc dĩ đối với bất cứ quốc gia nào gặp phải. Mỗi khi anh đến văn phòng ngoại kiều để xin giấy tờ đều phải giáp mặt với những cán bộ khinh rẻ người tỵ nạn ra mặt. Dĩ nhiên anh cũng gặp những người cán bộ Ðức thật sự là những con người có thái độ nhân đạo.
Hầu hết những người tỵ nạn trên đây đều không có tương lai. Phần đông, họ muốn được kéo dài cuộc sống tại Ðức để kiếm tiền được chừng nào hay chừng đó, dù hiện nay họ không được tự do đi lại, không được phép có công ăn việc làm, không có hy vọng được sống trên nước Ðức, nhưng cũng không được trở về Việt Nam một cách suông sẻ. Ðời sống tâm lý của họ bị đè nén thường xuyên. Một số ít đã lập gia đình hoặc chắp nối tạm bợ, sinh con đẻ cái để tạo lý do con dại mà kéo dài thời gian ở lại Ðức. Hoàn cảnh dở sống dở chết nầy càng đẩy họ vào con đường cùng, bí quá phải phạm pháp để rồi càng bị lún sâu vào ổ nhện tỵ nạn & nhân quyền bất đắc dĩ thật là mỉa mai. Tuy được chính phủ Ðức nuôi ăn ở, nhưng họ không thể thỏa mãn cuộc sống trong trại tỵ nạn. Tâm trạng của họ là tả oán nhiều hơn là biết ơn đối với chính phủ Ðức. Vì họ nghĩ rằng phải chi nước Ðức không có luật tỵ nạn, chắc họ không bị đẩy ra đi để phải dở sống dở chết như thế nầy. Về cũng dở, ở cũng không yên. Vì vậy hễ gặp bất cứ một việc làm bất hợp pháp nào mà kiếm được tiền là họ tham gia hết mình. Trong hoàn cảnh tâm lý bất an, dao động như thế, các sách vở giáo lý tôn giáo cũng không dễ gì bước vào tâm tư họ. Vì đã chịu ảnh hưởng chủ nghĩa duy vật vô thần từ khi còn bé, niềm tin tôn giáo chân chính còn xa lạ đối với họ. Ngược lại, những mê tín dị đoan ngự trị tâm hồn họ một cách dày cộm. Trừ những phòng tập thể, các căn hộ gia đình Việt Nam trong trại tỵ nạn luôn luôn có bàn thờ đốt nhang trên tủ, hoặc dưới góc xó căn phòng, dù họ không biết cụ thể mình đang thờ ai. Những tài liệu bói bài, tử vi, tướng số dễ tiêu thụ trong trại tỵ nạn. Có người đã đi xin xăm, coi bói, rà lại các lá số tử vi, ''xem vận hạn'' trước khi ra tay thanh toán đối thủ làm ăn của mình, hoặc đang chuẩn bị thực hiện những phi vụ mạo hiễm khác. Sau khi giết người rồi, họ lại tổ chức cúng quảy cho những linh hồn nạn nhân của họ. Qua các nghi lễ cúng bái đơn giản ấy, họ biện bạch những lý do tại sao mình đã ''phải giết anh em mình''. Họ khấn hứa là sẽ về VN chăm sóc gia đình của người đã bị họ giết. Họ khấn hứa với các linh hồn người chết rằng ''nếu các anh thiêng liêng, không trả thù kẻ ra tay mà còn phù hộ cho họ làm ăn trót lọt, họ sẽ cúng quảy thường xuyên''. Thường khi trình bày về một trường hợp của người bị giết để cúng bái khẩn đảo như thế, họ tự đặt mình với tư cách là một nhân chứng có lương tâm, biết đau xót. Nhưng sau khi đã tận tụy lắng nghe một số trường hợp, anh đọc được tâm trạng của họ giống nhau ở một điểm mê tín và sợ bị người chết trả thù.
Khi ngồi chung để tán gẫu về những chuyện ma quỷ, phần đông họ đề cao duy vật, vô thần. Nhưng khi được thì thầm riêng tư với từng người, anh cảm nhận nơi mỗi cá nhân của họ đều có ít nhiều niềm tin về thế giới siêu hình. Những gợi ý mê tín như xem chỉ tay, bấm độn, đoán tuổi, nhất là coi tướng, đoán mộng là dễ bắt chuyện nhất, nhưng đến với họ bằng quyển Kinh Thánh là bị từ chối dễ dàng. Thậm chí có người mời riêng anh để nhờ cậy một số phép tắc trừ tà theo niềm tin phù thủy quê mùa của họ, vì họ nghĩ rằng anh là một người từng đi tu bên Phật Giáo, đã thuộc nhiều kinh Phật, nay thường đọc kinh thánh, chắc là có vài ''phép thuật duy tâm''. Từ đó một số bí mật làm ăn của họ được rò rĩ ra từng chút. Khéo léo tiếp xúc một cách lẻ tẻ với vài trường hợp mới thấy rằng có những tin mật không bao giờ được nói ra công khai, nhưng ai cũng nói thầm riêng một chút để ngầm tỏ ra rằng ''tôi biết nhiều hơn cái đám thiên lôi kia''. Ví dụ ông A là một kẻ giết người. Phần đông người ta đều biết câu chuyện giết người của ông A ấy. Nhưng khi ông A đứng trước mặt đám đông, dĩ nhiên không một ai nhắc đến chuyện giết người của ông ta. Thậm chí người ta ăn uống nhậu nhẹt với ông A một cách bình thường. Khi ông A đi vắng, trong đám đông ấy cũng không có một người nào công khai nói gì về ông ấy cả. Nếu chịu khó, anh có thể tiếp xúc rỉ rả để nghe từng người một về những thông tin rất giống nhau của một vụ giết người mà một tên ''giống như ông A'' đã thực hiện.
Ai ở trong chăn mới biết rận. Có những chuyện thảm sầu luôn luôn phải giữ mật với ngoại nhân. Người Việt trong thế giới Cộng Sản quen sống hai ba mặt một cách rất thành thục. Hình như đây là một loại bản năng đặc biệt của người Cộng Sản. Nhưng đôi khi họ cần có một vài người ngoại cuộc để được cảm thông, được tư vấn, được an ủi, dù họ chẳng tin ai, nhất là những người đang cùng làm ăn với nhau. Trong bàn nhậu tập thể, họ thích trêu chọc nhau về chuyện gối chăn đông tây kim cổ cả nam lẫn nữ. Nhưng ngồi riêng từng người, họ đễ bộc lộ sự yếu đuối, cô đơn, bất an sâu kín. Tính chất hư hư, thực thực, chân thành và thủ đoạn, dọ dẫm và tin cậy thường quyện lấy nhau trong mỗi người. Lắm lúc anh được nghe từng chi tiết về những vụ cướp của giết người ở Tiệp, Ba Lan, hoặc ở một nơi nào đó, nhưng những chi tiết ấy lại được một số người khác cho biết là xẩy ra tại một vùng gần Berlin. Hôm nay anh có thể nghe họ công nhận tội ác của chế độ cường hào CSVN ở nông thôn, rồi họ khen chế độ miền nam Việt Nam có tự do, dân chủ... Họ chê Liên Xô, ca tụng sự phong phú về vật chất của các nước tự do hết mình. Họ cũng công nhận những sự thật trong chính sách nói dối, mị dân, độc tài của đảng Cộng Sản, nhưng một hôm khác vì sự hiện diện của một ''nhân vật thủ lãnh'', có thể họ nói ngược lại hoàn toàn, hoặc lái qua đề tài khác rất khéo léo rập ràng. Dầu sao anh cũng cảm thấy mình đã đọc được phần nào nỗi oán trách của họ đối với đảng Cộng Sản, đồng thời cũng thấy được khả năng mà họ biết thích nghi, biết nguỵ trang để vươn lên trong hệ thống phi nhân ấy, cho nên họ phải lòng vòng che giấu trách nhiệm của bản thân mình trong guồng máy tội ác chiến tranh Việt Nam do đảng CSVN gây ra. Họ lằm bằm về những tội ác của chế độ CSVN, đồng thời cũng rất nhanh nhạy nhắc đến tội ác của tư bản, rồi đến ''hội chứng chiến tranh Việt Nam'' của người Mỹ. Họ hay nhắc đến những người Mỹ hiện nay đang bị bịnh tâm thần vì ''lương tâm cắn rứt'' do tham chiến ở Việt Nam để biện hộ rằng cuộc chiến Việt Nam là bởi Mỹ gây ra. Anh bảo rằng Mỹ chỉ mới hy sinh 58.000 con em của họ mà đã cảm thấy một sự mất mát lớn lao, trong khi Ðảng CSVN đã đem đến cái chết cho 3.000.000 người Việt nam mà vẫn thấy còn có thể sẵn sàng hy sinh thêm nữa! Anh cho họ biết rằng Mỹ có thừa sức để chién thắng trên chiến trường quân sự, nhưng Mỹ đã chấp nhận rút lui như một kẻ thua trận. Kẻ chịu thua trận như thế mới là người anh hùng. Còn CSVN đã chấp nhận thí cho đến cái mạng cùi cuối cùng của dân mình để mà chiến thắng; đó là chiến thắng của thằng Chí Phèo vô dụng, thắng xong rồi là qụy lụy ngay đối với kẻ thù của mình!
Họ không bao giờ công nhận sự kiện lịch sử là Bắc Việt nhờ vũ khí của Nga, Tàu xâm nhập vào Nam Việt gây chiến tranh, buộc Miền Nam vào cái thế phải nhờ đồng Minh Mỹ và các nước tự do khác đến bảo vệ. Chuyển hệ từ Mỹ qua Ðức, họ cho rằng sở dĩ người Ðức ngày nay bỏ tiền ra nuôi cả triệu người tỵ nạn là vì muốn xoa dịu lương tâm sau khi gây tội ác trong Thế Chiến Thứ Hai chứ chẳng phải nhân đạo nhân đức gì cả. Thậm chí có người còn lý luận rằng dân tỵ nạn đến càng nhiều nước Ðức càng có lợi, vì Ðức nhận tiền của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc để nuôi người tỵ nạn, nhờ đó nhiều người Ðức có thêm công ăn việc làm trong lãnh vực xã hội nhân đạo. Anh không hiểu từ nguồn thông tin nào mà họ biết chắc như thế. Anh chỉ gặp vài người trí thức nhận định rằng nếu đảng CSVN không cố tình xua quân vào Nam thì chiến tranh không đến nỗi tàn phá con người và đất nước Việt Nam nhiều đến thế. Nếu đảng CSVN để yên cho cả hai miền Nam-Bắc sử dụng ngoại viện của hai phía Mỹ và Liên Xô để xây dựng đất nước, thì Việt Nam không thê thảm như ngày nay. Ít ra cũng có được vài người trí thức Bắc Việt đã nhìn nhận nguyên nhân cuộc đổ máu kinh khủng nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam là do Cộng Sản Bắc Việt cố tình thôn tính miền Nam. Một mặt họ khen chiến thuật vận động chiến tranh của đảng Cộng Sản Bắc Việt là tinh vi, độc đáo, mặt khác họ cũng cho rằng đó là một chiến thuật phi nhân nhất mà chỉ có đảng Cộng Sản mới thực hiện thành công một cách man rợ. Một số ít người nầy sau khi tin Chúa đã thẳng thắn công nhận những gian ác, những mánh khóe tiểu nhân, của những tên lãnh đạo chi bộ đảng ở thôn quê như bí thư chi bộ xã, công an xã, chủ nhiệm hợp tác nông nghiệp, nơi mà bản thân họ cũng đã sinh sống. Ðây là những người ăn năn chân thành và tỏ ra dứt khoát dấn thân vào một cuộc sống tâm linh mới mẻ. Tuy đây là một con số ít ỏi, nhưng họ là những người thành thật và can đảm nhất trong hàng ngàn người mà anh đã gặp.
Một số người Việt Nam trong giới tỵ nạn đã không còn chịu đựng nổi sự cô đơn và bất an. Họ bị bịnh trầm cảm, tâm thần, nghiện ngập, hoang tưởng và đã có một số trường hợp tự sát. Tất cả những người Việt tỵ nạn trên đang kiếm tiền một cách khốn khổ hàng ngày. Họ là nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản duy vật vô thần. Một đảng độc tài ngu xuẩn, gian ác, tối tăm, biển lận, tham nhũng, bất công từ trong nước ra đến nước ngoài. Số đồng bào ''nạn nhân''cộng sản nầy hiện đang đứng trước những ngõ cụt giống nhau. Nếu còn ở lại để kiếm tiền bất hợp pháp, cuộc sống của họ phải đối diện với nhiều cơ nguy như tù tội, sự cô đơn mà không có một tia hy vọng gì cho tương lai cả. Họ thả liều tới đâu hay tới đó. Nếu bị đưa về nước, họ sẽ khó thích nghi với cuộc sống bất công, tham nhũng, nghèo cực ở Việt Nam; chưa nói đến hoàn cảnh gia đình của nhiều người đã đổ vỡ. Những người đàn ông hoặc đàn bà bỏ gia đình, con cái qua đây một thời gian đều phải trả cái giá rất đắt về sự mất mát tình cảm hoặc bị thói quen lang chạ, luông tuồng trong cuộc sống thay vợ đổi chồng, bồ bịch tạm bợ. Nhiều cặp vợ chồng đã ly dị trước khi ra đi để qua đây tìm một tờ hôn thú hòng kiếm lý do pháp lý để ở lại, cuối cùng vợ chồng đã mất nhau. Thành phần đau khổ nhất là những người chấp nhận xa gia đình qua đây để đi bán thuốc lá lậu. Họ phải đứng hàng ngày dưới tuyết lạnh để bán từng gói thuốc lá lẽ. Hầu hết những người bán thuốc lá lẽ ngoài đường đều bị bịnh thấp khớp sau một hai mùa đông chịu đựng lạnh giá. Có ngày mới kiếm được vài chục Mác tiền lời thì bị cảnh sát Ðức bắt và tịch thu toàn bộ. Họ không dám giữ tiền và thuốc lá trong túi, sợ bị cảnh sát bắt quả tang. Họ phải chôn giấu ở các thùng rác, bụi cây, gầm cầu nên có khi bị trẻ con Ðức rình rập lấy cắp cả thuốc lẫn tiền.
Ngoài những lo sợ cảnh sát và trẻ con Ðức, người bán thuốc lá còn phải nộp tiền thuế cho băng đảng ''bộ đội'', đây là những băng đảng trấn lột lộng hành tiêu biểu nhất của người cộng sản Việt Nam. Những băng đảng nầy vì giành giật địa giới nên đã thanh toán nhau bằng những cuộc đấu súng ngoạn mục công khai ngoài đường phố, hoặc thanh toán nhau âm thầm trong các khu rừng vắng vẻ. Những chiếc còng số tám của cảnh sát Ðức không mấy ngại ngùng đối với những ''nạn nhân cộng sản'' Việt Nam nầy. Tại thành phố Berlin, người Việt sợ người Việt. Có lần anh giới thiệu sách của mình cho một gia đình người Việt trên xe lửa, nào ngờ họ sợ mình như sợ hủi. Quả thật người Việt Nam ở Ðức đang dè chừng, khiếp sợ nhau. Với những khổ đau, gian nan và nhục nhã như thế, nhưng hàng chục ngàn người Việt Nam vẫn chen chân vào nước Ðức để đeo đuổi từng gói thuốc lá lậu kiếm tiền gởi về nuôi vợ, nuôi chồng, nuôi con ăn học ở quê nhà. Quả thật CSVN đã xúi họ bán đứng hết thảy phẩm giá con người để kiếm tiền cho bằng được.
Trong hoàn cảnh bi đát như thế, một số ''nạn nhân của CSVN'' nầy đã nghe Tin Lành Cứu Rỗi. Họ ăn năn quay về tìm kiếm đức tin trong Chúa Jesus Christ. Những người nầy đang bước vào một cánh cửa phép lạ. Họ đang được cứu ra khỏi cuộc sống tối tăm bằng những phép lạ thật sự. Từ những con người cùng quẩn, phạm pháp, khốn khổ trở thành những người nhận ra khuyết điểm của mình để ăn năn với Chúa, để được thay đổi. Khi con người vốn đã sinh ra và lớn lên trong môi trường tội lỗi, không dễ gì có thể thay đổi được bản chất rắn rít, sâu bọ để nhận lấy bản chất của chim bồ câu. Nhưng trong quyền năng của Thiên Chúa, việc nầy xẩy đến với hàng trăm người Việt Ðông Âu tại Ðức mà anh đã gặp. Họ đã được Chúa tái sinh như anh đã được Chúa tái sinh. Những con người nầy ngày nay biết tự trọng, biết yêu quý cuộc sống công bằng, biết vị tha, sẵn sàng trở về Việt Nam rao giảng Tin Lành Cứu Rỗi. Họ không còn mặc cảm che giấu quá khứ tối tăm của họ, vì quá khứ ấy đã chết. Họ đang sống với sức sống mới của Chúa với vinh quang và ơn tha thứ của Người, với sự thương xót và vị tha mà Người đặt vào những tấm lòng mới họ. Nếu không phải Chúa Cưu Thế thì ai đã tái sinh họ? Trong khi ấy anh gặp một số tín hữu đạo dòng vốn sinh ra và lớn lên trong môi trường có đạo mà vẫn khư khư giữ lấy cái ''bản ngã có đạo'' của mình để sống với đời sống tôn giáo, nghi lễ; dù đi lễ nhà thờ thường xuyên, nhưng những tín hữu nầy chưa khám phá ra bản chất rắn rít sâu bọ, giả hình của mình để bàn giao cho Chúa hầu được chết đi con người tội lỗi và sống với con người được tái sinh!
Như đoạn trên anh đã viết, hiện nay đang có một điều rất đáng mừng đã xẩy ra trong các cộng đồng người Việt Ðông Âu. Ðó là nhiều người Việt qua đây theo đường dây mafia cộng sản dưới hình thức hợp pháp như đi lao động, học tập, công tác; hay thậm chí đi buôn lậu; sau khi sống một thời gian tại các nước Ðông Âu và nước Ðức, họ đã có cơ hội hiểu biết về Ðạo Chúa. Nhiều người Việt trong giới nầy đã tin Chúa. Những người tin Chúa thành thật đều được thay đổi rất lạ lùng. Anh chứng kiến nhiều phép lạ đã xẩy ra giữa những người Việt mới tin Chúa nầy. Họ tổ chức những lớp học Kinh Thánh rất mạnh mẽ, ham thích Lời Chúa, dám bỏ mình nhận lấy niềm tin nơi Ðấng Chí Cao. Họ thật sự yêu thương nhau, và biết tôn trọng luật pháp bản xứ.
Mới tiếp xúc với các cộng đồng người Việt tại Ðức khoảng một năm nay, anh chưa hề gặp người Việt Nam nào có đức tin mạnh mẽ, dạn dĩ, có tình yêu thương và sẵn sàng cưu mang nhau như những người Việt Ðông Âu nầy. Họ không thèm quan tâm đến chính trị, dù chúng ta nói chống cộng hay chống tư bản, đối với họ đều là vô nghĩa. Ðiều quan trọng nhất mà họ đang say sưa là tình yêu của Thiên Chúa đang thể hiện qua những sinh hoạt giữa họ với nhau. Khi nhóm nhau lại, họ cầu nguyện cho dân tộc Việt Nam và cho cả dân tộc Ðức rất tha thiết. Họ dám sống với đức tin vào Thiên Chúa một cách xác quyết. Họ nhận biết tội ác của cộng sản cũng như tư bản và cả tội lỗi của mỗi cá nhân họ đối với Thiên Chúa để ăn năn. Những tay anh chị đã từng ''nói người ta nghe, đe người ta sợ, mượn nợ người ta không dám đòi'' nay trở nên những con người kính thờ Ðức Chúa Trời, biết hy sinh, vị tha, thức đêm thức hôm để an ủi, chăm sóc những người Việt Nam khác đang gặp rủi ro túng quẩn nơi đất khách quê người. Có người lái xe vượt hàng trăm cây số vào nửa đêm để đón những anh em Việt Nam mới quen, vì nghĩ rằng đây là những cơ hội để giúp đỡ đồng hương và gieo hạt giống Tin Mừng cho đồng bào mình. Họ đã được Chúa thay đổi thành những con người mới, an vui, tin cậy. Ðó là những con người được tái sinh và được thánh hóa mà Kinh Thánh đã nói đến từ xưa. Họ ăn năn và từ bỏ những việc làm giấy tờ giả, hoặc chấm dứt hình thức giả bộ tham gia phong trào chống cộng để kiếm cớ tỵ nạn. Họ sẵn sàng về nước chấp nhận cuộc sống nghèo khó, nhưng không giả dối và sẵn sàng truyền đạt tình yêu Thiên Chúa cho thân nhân. Cứ một người trong số họ đã trở lại với Chúa tại Ðức là có theo những người bà con ruột thịt ở Việt Nam cũng được kêu gọi trở về với Chúa.
Một năm qua, anh biết được một số người đã xin về Việt Nam và tiếp tục sinh hoạt với nhau thành những nhóm Tin Lành Tư Gia tại Hà Nội, Thanh Hóa, Vinh, Hải Phòng; trong số nầy, không ít người đã chịu tù tội vì thái độ sống đạo của họ trong xã hội cộng sản hiện nay. Thái độ bày tỏ đức tin của họ rất mạnh mẽ, dứt khoát, mặc dù đang bị những người Tin Lành bảo thủ cho rằng đây là những tín hữu cực đoan, quá khích. Anh nghĩ rằng thà họ có một đức tin ''cực đoan'' như thế vẫn tốt hơn bị sa vào phạm pháp, nghiện ngập sa đọa... Há những người Việt biết yêu nhau như thế nầy không đem lại một ảnh hưởng tích cực nào cho dân tộc VN sao? Nếu một dân tộc có nhiều người ăn năn tội trở về với Chúa thật sự như những người nầy, chắc chắn Cộng Sản phải lo sợ, và những người chống cộng một cách mù quáng cũng chẳng vui gì với điều lành đã xẩy đến cho anh em mình. Anh nghĩ rằng những con người đã được Chúa thay đổi nầy sẽ là những tác nhân tích cực xây dựng xã hội Việt Nam lành mạnh sau khi Cộng Sản sụp đổ. Mặc dù những người nầy hoàn toàn không tham gia bất cứ một sinh hoạt chính trị nào cả, nhưng theo anh, Cộng Sản sợ những con người nầy hơn những nhà chính trị thiếu tinh thần đoàn kết. Anh tin rằng đây là một phép lạ lớn Chúa đang làm cho dân tộc Việt Nam. Những người nầy đã, đang và sẽ trở về Việt Nam gieo hạt giống Tin Mừng trong thế giới cộng sản Bắc Việt. Tại sao thế? Tại vì người Miền Nam chúng ta chưa chịu đoàn kết, chưa chịu học bài học sai lầm để phục hưng đất nước, nhưng Thượng Ðế vẫn yêu dân tộc Việt Nam nên Người thực hiện chương trình cứu rỗi của Người cho dân tộc chúng ta qua những con người dám hạ mình đi theo Người như những con trẻ ấy. Thượng Ðế thường ban phước cho những đứa con hư biết ăn năn hơn là những đứa con tự cho mình là tốt mà lại khư khư kiêu ngạo, rởm đời. Khi Thượng Ðế đã làm phép lạ để cứu dân tộc Việt Nam ra khỏi xiềng xích cộng sản thì không ai ngăn cản ý định của Người được. Anh tin rằng không có một lực lượng nào có thể thắng CSVN mà không cần thành thật nhờ cậy vào Ðấng Thiêng Liêng. Những kẻ thật lòng yêu con người, yêu đất nước, biết được Ý Dân Là Ý Trời một cách nghiêm chỉnh mới làm cho cộng sản thối chí. Những người chống cộng như Thúc có thể vô tình giúp cho Cộng Sản tồn tại lâu thêm mà thôi. Hiện nay các nước trên thế giới chưa thấy khả năng chống cộng của những người Việt Quốc Gia. Nhưng những người Việt Ðông Âu nầy đang xây dựng lại hình ảnh người Việt Nam chân chính, đáng cảm mến, đáng nể phục đối với những người Ðức vốn đã từng có cái nhìn thiếu thiện cảm do những người Việt đã và đang làm ăn bất chính tại xứ họ. Cộng đồng những người Việt Ðông Âu có đức tin mới mẻ nầy đang phát triển rất nhanh ở các nước XHCN cũ như Nga, Tiệp, Ba Lan. Anh đã gặp được một vị mục sư trẻ tuổi, chỉ mới theo Chúa chưa đầy 08 năm tại Nga, nhưng ông giảng đạo đầy thuyết phục. Ông đã thực hiện một bài giảng từ nửa đêm đến sáng. Hàng trăm người Việt Ðông Âu ngồi nghe im phăng phắc. Những bài giảng thông thường của ông kéo dài 3 tiếng đồng hồ mà người nghe vẫn chưa muốn rời chỗ. Anh cảm thấy thèm thuồng cho dân tộc chúng ta có được hàng chục ngàn con người đầy lòng tin kính, đầy tình yêu, đầy sự biết ơn Ðấng Tạo Hóa như thế. Khi một dân tộc có đức tin vững mạnh, chắc chắn cộng sản vô thần không còn chỗ đứng. Dĩ nhiên khi ấy những người giả mạo chống cộng, hoặc chống cộng chỉ vì ích kỷ, tham vọng cá nhân và bè phái hẹp hòi cũng sẽ không có chỗ đứng.
Cộng Sản có năng khiếu thực hiện chiến tranh bằng bạo lực. Những người không hiếu chiến không thể nào thắng được Cộng Sản bằng bạo lực. Nhưng khi nói tới niềm tin, tình yêu thì Cộng Sản chỉ biết ba que xỏ lá. Khi chúng ta có niềm tin xác quyết và tình yêu vững mạnh trong Chúa Jesus, Cộng Sản bị khuất phục. Tình yêu thiêng liêng thắng được tội ác trần gian là như thế. Tình yêu thiêng liêng của Ðấng Tạo Hóa thay đổi được tội ác trong con người một cách thực tế và rất mầu nhiệm. Gần 20 năm tại Việt Nam, cá nhân anh đã được chứng nghiệm về sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa trước bạo lực cộng sản, nay qua Ðức, anh lại chứng kiến thêm nhiều người Việt Ðông Âu cũng có kinh nghiệm nầy. Từ những con người đã tham gia vào đảng CSVN rồi trở thành mafia cộng, ngày nay họ được Thiên Chúa đổi thành những con người mới. Họ không còn là cộng sản hay mafia nữa. Họ là những người Việt Nam thờ Trời.
Trong lá thư trước, anh viết cho em rằng đảng CSVN là một đảng mafia, có thể Thúc chưa hiểu ý anh nên đã vội mỉa mai và dùng một từ tục tỉu ngoài tiếng mẹ đẻ để chỉ trích ý tưởng của anh. Nếu là một Phật Tử đi chùa mà ăn nói thế là uế ngôn ác ngữ. Nếu thờ ông bà mà nói vậy là phủi lời dạy của tổ tiên lưu truyền. Nếu làm người trí thức mà nói thế là kém nhân đức. Lời nói của mình cũng biểu lộ bản chất và tư cách của mình. Em có chữ xin lỗi anh để làm một bình phong che đậy cho câu văn tục tĩu của mình, nhưng tốt hơn nữa là không nên phát ngôn tục tĩu như thế. Dù không hơn ai, nhưng anh cần phải khuyên Thúc đừng cư xử với bất cứ ai như vậy. Ngay cả với con cái của Thúc, em cũng không nên ăn nói thô tục với chúng, huống hồ là đối với một người anh. Một người trọng lẽ phải thì ít nhất cũng biết dùng lời lẽ trong sáng để diễn tả ý tưởng tốt của mình.