Các học giả Kinh Thánh và khoa học gia về ngành y đồng ý rằng bệnh cùi thực sự, hay bệnh Hansen, hầu như không xuất hiện trong thế kỷ thứ nhất ở Palestine. Bệnh này được đem vào vùng Trung Đông từ Ấn Độ bởi các đạo quân của Alexander Đại Đế khoảng năm 300 TTL (trước tây lịch), nhưng họ không tìm thấy dấu vết của bệnh cùi trong bất cứ bộ xương nào đào xới được trong vùng Ít-ra-en. Chỉ có một trường hợp được tìm thấy ở Ai Cập, và các xương này được ghi nhận là thuộc thế kỷ thứ nhất tây lịch!
Bệnh cùi thực sự chỉ lây lan nhẹ. Ngay cả vợ/chồng cũng thường không bị “nhiễm” từ người kia có bệnh. Tuy vậy tình trạng có vẩy được diễn tả trong sách Lêvi 14 và 15 thì phải lo sợ không vì nó lây lan nhưng đúng hơn vì nó ô nhiễm. “Bệnh cùi trong Kinh Thánh” thì không “lây”, nó “dơ bẩn”; và làm cho cá nhân cũng như cộng đồng thành “dơ bẩn,” “không tinh khiết”, “không sạch”.
Sau cùng, sách thánh Do Thái cũng như Hy Lạp không dùng đúng chữ về bệnh cùi “thực sự”. Thật vậy, những chữ này được dùng để diễn tả một tình trạng ghê tởm, tróc da, hay có vẩy ảnh hưởng đến da, quần áo, và vách tường trong nhà.
Lịch sử và nhân chủng học chứ không phải y khoa và khoa học giúp chúng ta hiểu tại sao các tổ tiên của chúng ta trong Đức Tin lại quá lo lắng về loại “bệnh cùi” này.
Các luật “tinh khiết” trong sách Lêvi 11-15 đối phó với những ranh giới. Lêvi 11 liên quan đến miệng, một lỗ hổng của thân thể mà qua đó thức phẩm “được phép” và “không được phép” đi qua ranh giới của thân thể mà vào bên trong. Lêvi 12 liên quan đến việc thụ thai và sinh con, một tiến trình đi qua ranh giới thân thể bởi một lỗ hổng trên thân thể của người nữ. Lêvi 13 và 14 diễn tả một tình trạng ghê tởm, tróc da hay có vẩy ảnh hưởng đến da, y phục, và các bức tường – ba loại ranh giới. Trong từng trường hợp, bản văn Kinh Thánh phản ánh sự lưu tâm về sự kiện là vấn đề này có sâu hơn lớp da hay không, hoặc, nói cách khác, nó có “chọc thủng” ranh giới hay không. Sau cùng, Lêvi 15 thảo luận về việc nam và nữ phóng ra hay rò rỉ ra ngoài ranh giới của thân xác qua những lỗ hổng của thân thể một cách vô tình mà khó (không thể?) kiểm soát được.
Các nhà nhân chủng học nói rõ rằng một xã hội lưu tâm đến việc duy trì sự an toàn và đảm bảo các ranh giới của thân thể thì cũng lưu tâm đến sự an toàn và đảm bảo các ranh giới xã hội hay địa lý. Các quy luật chi phối thân thể phỏng theo các quy luật chi phối xã hội hay hình thể địa lý. Các luật đặc biệt này của sách Lêvi trở nên bó buộc thực thi một cách cứng rắn hơn sau cuộc lưu đầy trở về từ Babylon (587-537 TTL). Ở Babylon, tư tế Ét-ra kết luận rằng lý do Thiên Chúa đã trừng phạt tuyển dân phải lưu đầy vì họ đã kết hôn với người ngoại quốc, đó là, các phụ nữ không phải là Do Thái. Họ đã đưa các phụ nữ “không sạch” đi vào ranh giới của cộng đồng “thánh thiêng” của Ít-ra-en.
Thầy Ét-ra tuyên bố rằng, để phục hồi sự tinh khiết và thánh thiêng cho Ít-ra-en, các phụ nữ này và con cái của họ phải bị sa thải ngay lập tức. Ngay tại chỗ, ông đã phá vỡ các hôn nhân và phục hồi các ranh giới vững chắc, không thể xâm nhập cho Ít-ra-en, làm cho nó toàn vẹn và thánh thiêng một lần nữa (Ét-ra 10; Nơkhêmia 9).
Trong cùng một giai đoạn lịch sử, các luật tinh khiết của sách Lêvi 11-15 đã bắt đầu bó buộc thực thi một cách cứng rắn. Luật hôn nhân bảo vệ các ranh giới của xã hội; luật tinh khiết bảo vệ các ranh giới của thân xác con người. Một bộ luật (tinh khiết) phản ánh và củng cố bộ luật khác (hôn nhân). Và lý do cho tất cả các luật này là để đảm bảo rằng Ít-ra-en vẫn giữ được “sự thánh thiêng như Đức Chúa thánh thiêng,” một chủ đề được tái diễn trong sách Lêvi.
Luca thuật lại rằng mười người bị ảnh hưởng bởi một tình trạng ghê tởm, da có vẩy (suy yếu các ranh giới thân thể) đến với Đức Giêsu và xin thương xót (c. 13). Trong thế giới Địa Trung Hải, sự thương xót diễn tả một đặc tính của con người mà nó thúc giục người ấy đáp ứng với bổn phận giữa cá nhân với nhau. Thật vậy, mười người trong Luca xin Đức Giêsu hãy cho họ những gì mà Người thiếu nợ họ! Và điều đó là gì?
Trong một trường hợp khác, một người cùi xin Đức Giêsu “hãy làm được sạch” (Mt 8:1-2; Mc 1:40-45; Lc 5:12-16). Tình trạng của họ đặt ra một sự đe dọa về ô nhiễm cho cộng đồng của họ. Họ bị loại trừ khỏi cộng đồng và, quan trọng nhất, khỏi sự thờ phượng chung. Họ phải ở bên ngoài các ranh giới. Điều mà những người như thế bị “thiếu” là tư cách thành viên trong cộng đồng thánh thiêng, sự phục hồi tư cách thành viên đó dường như bị đình chỉ. Mười người xin sự thương xót nhìn nhận rằng Đức Giêsu có thể phục hồi họ trở về cộng đồng thánh thiêng.
Đức Giêsu, là người chữa lành, thường bất chấp các ranh giới và luôn đẩy chúng ra xa hơn. Người tội lỗi, mù lòa, què quặt, và cùi hủi đều được đón nhận trong vòng ranh giới của cộng đồng thánh thiêng mà Đức Giêsu đã thành lập. Sự chữa lành, về kỹ thuật, có nghĩa phục hồi lại ý nghĩa đời sống; chữa bệnh ám chỉ việc giải quyết những khó khăn về y sinh (biomedical).
Thế giới văn hóa của Đức Giêsu biết rằng chính một mình Thiên Chúa là người chữa lành. Đức Giêsu là một trung gian hay môi giới có tài. Chín người được chữa lành lên Giêrusalem để “ca ngợi Thiên Chúa” trước sự hiện diện của các tư tế; một người đến “ca ngợi Thiên Chúa” trước sự hiện diện của Đức Giêsu. Tuy Đức Giêsu không nói đến việc dâng của lễ mà không nghĩ đến người Samari này, người này cũng biết rõ là anh ta sẽ không được đón nhận hay có lẽ ngay cả được phép vào Đền Thờ Giêrusalem. Bởi thế anh dâng lời chúc tụng với Đấng đã chữa lành cho anh và cho người trung gian của Đấng ấy, là Đức Giêsu. Hơn nữa, đó là người Samari duy nhất nói lời “cảm ơn” Đức Giêsu.
Trong vùng Trung Đông thời xưa, nói lời “cảm ơn” là chấm dứt một tương giao. Câu nói ngày nay xác nhận, “Đừng cảm ơn tôi; bạn sẽ trả lại tôi [với một ơn huệ khi tôi cần].” Người Samari nhận biết rằng không thể nào đền ơn cho ân nhân người Galilê này hay trở lại với người này khi gặp khó khăn lần tới, thông thường là như thế. Những người cùi Do Thái là một chuyện khác. Là phần tử của một nhóm bên trong, họ có thể đến với Đức Giêsu bất cứ đâu vào bất cứ lúc nào. Người Samari biết rằng anh ta ở “sai” chỗ vào “đúng” lúc, và cơ hội như thế không thể xảy ra một lần nữa cho anh.
Tình trạng ghê tởm trên da của người Samari được cải thiện; Đức Giêsu đón anh vào cộng đồng. Những người Giuđê và Galilê khác thì không chấp nhận như vậy. Chúng ta, những môn đệ của Đức Giêsu thời nay, có noi gương Thầy chúng ta hay bắt chước những người đồng hương của Người?