Một cuốn sách được xuất bản ở Hoa Kỳ vào năm 2012 được nhiều người chú ý, đó là cuốn “Proof of Heaven: A Neurosurgeon’s Journey into the Afterlife” (Bằng Chứng về Thiên Đường: Hành Trình đi vào Đời Sau của Một Chuyên Gia Phẫu Thuật Thần Kinh), bởi vì tác giả, Bác Sĩ Eben Alexander, trước đây không tin có “lĩnh vực thiêng liêng” nhưng trong khi ông hôn mê (coma) vì bị một loại vi trùng hiếm tấn công não và cột sống, ông được nhìn thấy những điều lạ lùng ở thế giới bên kia.
Cảm nghiệm của Bác Sĩ Eben được coi là cận-tử (near-death experience) – nôm na gọi là “chết đi sống lại” – không phải là hiếm bởi vì trên thế giới có nhiều người cũng có cảm nghiệm cận-tử như ông. Các câu chuyện của họ minh chứng những gì đã được ghi lại trong Phúc Âm, và câu chuyện của ông nhà giầu và Lagiarô người nghèo hôm nay là một trong những minh họa cho các thực tại thiêng liêng ở đời sau – có hình phạt và phần thưởng, có hỏa ngục và thiên đường.
Những người có cảm nghiệm cận tử thì may mắn vì họ có cơ hội làm lại cuộc đời, thay đổi lối sống, trong khi ông nhà giầu trong câu chuyện của Chúa Giêsu, khi nhận ra những sai lầm của mình, ông kêu cứu với tổ phụ Abraham thì đã quá muộn.
Thoạt nghe qua câu chuyện này, chúng ta có cảm tưởng Chúa Giêsu lên án những ai giầu có và ích kỷ, nhưng đọc kỹ lại, chúng ta thấy Chúa Giêsu không kết án ông nhà giầu về tội ăn cướp, lừa gạt, hay bất cứ tội nào khác để được giầu có. Tội của ông thì tinh vi hơn và nguy hiểm hơn – ông chưa bao giờ thực sự nhìn thấy Lagiarô. Ngày này qua tháng nọ, ông đi ngang qua đó, nhưng vì chìm ngập trong sự tiện nghi, ấm cúng, và xa hoa, ông không nhìn thấy người đau khổ ngay ở trước cửa nhà. Hàng ngày, ông xây bức tường thờ ơ lãnh đạm trong đời sống, và bức tường đó trở nên một vực thẳm không thể vượt qua được ở đời sau.
Câu chuyện này thì không chủ yếu nói đến vấn đề giầu sang vật chất, nhưng là vấn đề chúng ta có nhận ra phẩm giá con người mà Thiên Chúa đặt ở trước cổng nhà của chúng ta hay không.
Ngay trong gia đình chúng ta, cũng có thể có một “người nghèo” là con cái, anh chị em, hay cha mẹ già, mà họ ao ước được chúng ta lưu tâm dành thời giờ đến với họ, trò chuyện với họ, nhưng vì bận rộn với công việc làm, vì sự giải trí cho riêng mình, hay ngay cả vì những việc “đạo đức” riêng tư, chúng ta đã không thực sự nhìn thấy họ.
Hay trong khu xóm, trong giáo xứ, trong những người thân quen, có những gia đình gặp khó khăn, có những người mẹ hay người cha cô độc nuôi con, chúng ta có lưu tâm giúp đỡ hay ít nhất một lời thăm hỏi, hay chúng ta làm ngơ không muốn biết.
Người ta có thể nghèo về vật chất và tinh thần hay nhiều phương diện khác. Có lẽ đa số chúng ta đều nghèo về tình yêu. Chúng ta muốn được yêu, chúng ta khao khát tình yêu, nhưng thật nghịch lý, chúng ta lại không muốn mở lòng mình để yêu thương người khác, đem cho họ điều cần thiết nhất trong cuộc đời để rồi chúng ta được yêu thương lại.
Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa đứng về phía người nghèo. Trong sách luật Lêvi, Thiên Chúa ra lệnh rằng, “những ruộng lúa ven bờ phải dành cho người nghèo để họ còn có chút lúa mà lượm lặt.” (23:22). Trong Thánh Vịnh, Thiên Chúa kêu gọi, “Hãy bênh vực những quyền lợi của người nghèo và trẻ mồ côi; hãy minh oan cho người bị áp bức và có nhu cầu” (82:3). Và ngay khi khởi đầu sứ vụ rao giảng, Chúa Giêsu đã tuyên bố, “Thần Khí Chúa… đã xức dầu tấn phong tôi để đem tin mừng cho người nghèo” (Luca 4:18). Và trong Ngày Phán Xét, Chúa Giêsu đã đồng hóa với người nghèo, “vì xưa Ta đói các ngươi đã cho ăn, Ta khát các ngươi đã cho uống, …” (x. Mt 25:31-46) để khuyến khích chúng ta hãy yêu thương những người nghèo vì đó cũng là yêu thương Thiên Chúa.
Chúa Giêsu muốn chúng ta thể hiện đức tin một cách thực tế. Cầu nguyện là một cách giao tiếp với Thiên Chúa, nhưng sự cầu nguyện ấy có giá trị hay không, có vui lòng Thiên Chúa để được nhận lời hay không thì tùy thuộc ở lối sống của chúng ta đối với tha nhân, nhất là với những ai có nhu cầu.
Khi giúp đỡ “người nghèo”, về bất cứ phương diện gì, chúng ta nhận ra sự mong manh, yếu đuối của họ, và khi giúp đỡ họ chúng ta thấy được giá trị cao quý của tình yêu. Người Việt Nam có câu, “của cho không bằng cách cho.” Sự giúp đỡ của chúng ta có thể không hoàn toàn thỏa đáp mọi nhu cầu của họ, nhưng tình thương của chúng ta được biểu lộ qua sự chân thành giúp đỡ lại là món quà quý giá nhất, bởi vì, rất có thể chúng ta là người duy nhất xoa dịu sự cô đơn, sự chán chường, và sự tuyệt vọng của họ. Tình yêu đem lại giá trị cho con người.
Khi giúp đỡ người nghèo, chúng ta cũng nhận ra được thân phận của loài người – mong manh, yếu đuối, nay còn mai mất – trong đó có chính chúng ta, và thấy rằng chúng ta cần sự trợ giúp của Thiên Chúa. Đó là khởi đầu ơn cứu chuộc. Đó là khởi đầu sự khiêm tốn để nhận ra được sự tầm thường của tính ích kỷ, để thấy được sự phù du của danh vọng, tiền của, khoái lạc, và quyền thế ở đời này, và cố gắng sống tình yêu qua những công việc bác ái.
Các thánh – như T. Vincent de Paul, T. Têrêsa ở Calcutta – đã nói rằng, chúng ta phải cảm ơn người nghèo vì họ cho chúng ta nhiều hơn chúng ta cho họ. Người nghèo có gì để cho chúng ta? Người nghèo cho chúng ta cơ hội để thực tập sự quảng đại, để giúp chúng ta trở nên thánh thiện.
Sự quảng đại đi đôi với tình yêu. Ai yêu nhiều thì quảng đại nhiều, hy sinh nhiều. Khi sống quảng đại là khi chúng ta đang được trở nên đồng hình dạng với Thiên Chúa, Người là Tình Yêu và sự Thánh Thiện. Khi sống quảng đại, chúng ta đang khôi phục lại giá trị con người vì sự quảng đại đi ngược với tính ích kỷ là điều làm chúng ta tầm thường. Nói tóm, sự quảng đại có lợi cho chúng ta, vì khi cho đi là khi được nhận lãnh. Khi chúng ta giúp người nghèo giữ được phẩm giá của họ, chính phẩm giá của chúng ta cũng được nâng cao.
Thông điệp của bài phúc âm hôm nay là đã đến lúc chúng ta phải nhìn lại lối sống của mình. Mỗi ngày là một cơ hội để sống đức tin khi biết nghĩ đến người khác. Qua sự thăm viếng, một chút thực phẩm, hay một lời nói tử tế, một sự lưu tâm hay một hy sinh thời giờ để giúp đỡ những ai có nhu cầu, chúng ta đang loan truyền Tin Mừng một cách âm thầm khi đem tình yêu đến sa mạc vô cảm của một xã hội đề cao chủ nghĩa cá nhân và vật chất.
Trong tiếng Híp-ri, “Lagiarô” có nghĩa “Thiên Chúa là sự giúp đỡ của tôi” – với ý nghĩa đó, mọi người chúng ta đều phải trở nên Lagiarô, trở nên người nghèo vật chất nhưng giầu tinh thần, và chỉ lệ thuộc vào một mình Thiên Chúa, là cùng đích, hạnh phúc đích thực của chúng ta.
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa Giêsu giúp chúng ta không thờ ơ, lãnh đạm trước nhu cầu của đồng loại, và nhờ thế chúng ta vượt qua được tính ích kỷ để quảng đại giúp đỡ bất cứ ai có nhu cầu và khôi phục lại phẩm giá đích thực của một con người mà Thiên Chúa mong muốn ngay từ thuở ban đầu./.