Nguoi Tin Huu Logo
  • Trang Nhà
  • Trang Chính
    • CHIA SẺ
      • ĐỖ TRÂN DUY
      • Lm. HỒNG GIÁO
      • THƠ CÔNG GIÁO
      • NGUYỄN HUỆ NHẬT
        • TỪ ÁO CÀSA ĐẾN THẬP TỰ GIÁ
        • AI CHẾT CHO AI? AI SỐNG CHO AI?
        • ĐỐI THOẠI VỚI MỘT PHẬN TỬ
      • NHIỀU TÁC GIẢ
    • DÒNG MÁU ANH HÙNG
    • ĐƯỜNG VÀO ĐẠO
    • HIỂU ĐỂ SỐNG ĐẠO
    • HÔN NHÂN CÔNG GIÁO
    • HỘ GIÁO
    • LỊCH SỬ GIÁO HỘI
    • MÁI ẤM GIA ĐÌNH
    • PHỤNG VỤ
      • Bài Giảng
      • Các Nghi Thức
    • SÁCH & TRUYỆN
  • Trang Hàng Ngày
    • GƯƠNG THÁNH NHÂN
    • SUY NIỆM HÀNG NGÀY
  • Trang Ngoài
    • VIETCATHOLIC
    • CẦU NGUYỆN BẰNG THÁNH VỊNH ĐÁP CA
    • HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VN
    • DÒNG CHÚA CỨU THẾ VN
    • DÒNG TÊN VN
    • LIÊN HIỆP BỀ TRÊN THƯỢNG CẤP VN
    • TRANG SỨ GIẢ TÌNH YÊU

John J. Pilch (Thế Giới Văn Hóa Thời Đức Giêsu - Pt Tv. Nhật lược dịch)

CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN

Luca 15:1-32

Một truyền thống giáo sĩ Do Thái cảnh cáo rằng: “Đừng để ai quan hệ với người tội lỗi được đến gần với bộ sách Tôra” (Mekilta 57b on Exod 18:10). Cho người tội lỗi ăn thì đáng khen; ăn uống với họ thì bị cấm. “Đãi tiệc” hay “chào đón” người tội lỗi, như Đức Giêsu làm ở đây (15:2), khiến cho người Biệt Phái giận điên người.

ĐỨC GIÊSU, THÀNH THẠO SỈ NHỤC

Đức Giêsu thường đối phó với các kẻ thù bằng cách sỉ nhục họ một cách trực tiếp và thẳng thừng. Các nhân vật chính trong hai dụ ngôn này thì rất xúc phạm đến người Biệt Phái.

Người chăn chiên. Với mọi chủ nghĩa biểu tượng phong phú trong Sách Thánh, người chăn chiên bị người Biệt Phái coi là dơ bẩn, vì là những thành phần của một ngành nghề bị khinh miệt và bị cấm. Đức Giêsu mỉa mai hỏi những người Biệt Phái, “Ai trong các ông, có một trăm con chiên và một con đi lạc…”

Phụ nữ. Điều đó sẽ thật sỉ nhục nếu Đức Giêsu nói với nhóm người có thành khiến này rằng: “Phụ nữ nào trong các ông…?” nên Người rút gọn và tổng quát hóa câu hỏi: “Có phụ nữ nào mất một đồng cắc…?”

Trong cả hai câu chuyện, điều gì đó có giá trị rất lớn đã mất: một, trong một trăm con chiên, cái khác, một trong mười đồng cắc. Chiên bị lạc trong hoang địa; đồng cắc bị mất ở nhà. Con chiên phải trả về cho cộng đồng, vì đó là một sự mất mát chung. Một gia đình chỉ có thể có bốn mươi con chiên. Hiển nhiên, một trăm con chiên thuộc về nhiều hơn một gia đình. Đồng cắc thì dễ trở về với đồ nữ trang của phụ nữ, mà nó là một phần.

Điểm chính của mỗi câu chuyện là sự siêng năng tìm kiếm thì sẽ tìm thấy báu vật bị mất và đem lại niềm vui lớn lao. Người Biệt Phái phải vui mừng thay vì càu nhàu về việc Đức Giêsu tìm kiếm và hòa giải với người tội lỗi lạc loài.

HAI NGƯỜI CON LẠC LOÀI

Đức Giêsu đưa người Biệt Phái đến gần hơn nữa với dụ ngôn khác trong đó có một người con trai trẻ hơn (cc. 11-24) và một người con trai lớn tuổi hơn (25-32, cũng nên đọc Chúa Nhật IV Mùa Chay).

Tội. Lời yêu cầu của người con thứ thì tương đương với việc mong muốn cha mình chết đi. Khi từ chối sự hòa giải của người em với cha mình, người con trưởng thì cũng nhu nhược không kém.

Sám hối. Sau khi phung phí tài sản, bị hạ cấp đến độ phải chăn nuôi súc vật dơ bẩn, và bắt đầu chết đói, người con thứ “nghĩ lại mình,” đó là, “bắt đầu sám hối.” Hắn nhận ra rằng khi mất đi tài sản, hắn mất đi các phương tiện để chăm sóc người cha trong tuổi già. Sự lựa chọn trở nên một người làm thuê sẽ giúp hắn độc lập và có thể kiếm lại số tiền đã đánh mất và trả lại cho cha mình. Sự sám hối sẽ đem lại sự hòa giải với người cha, nhưng với người anh hoặc cả làng thì có lẽ không.

Ơn sủng. Cách cư xử của người cha đối với đứa con hoang trở về là những hành động kịch tính được tính toán để bảo vệ đứa con khỏi thái độ thù nghịch được tiên đoán của cả làng. Ông chịu sự phê bình nghiêm khắc của làng để gặp đứa con, che chở nó trong cái ôm bao bọc, và hôn lấy hôn để tỏ dấu chỉ hòa giải và tha thứ.

Niềm vui. Giết một con bê thay vì con dê hay con chiên có nghĩa toàn thể làng được mời để chia vui. Có đủ thức ăn cho hơn một trăm người. Bữa tiệc nhằm hòa giải người con này với toàn thể cộng đồng.

Địa vị làm con. Người cha xác nhận sự quan hệ được tái lập: “Đứa con này của tôi đã chết và nay lại sống; đã mất và được tìm thấy.” Đây là điều hơn cả người con mơ ước. Người con cả cũng lạc loài. Hắn từ chối không tham dự bữa tiệc. Thật vậy, hắn công khai sỉ nhục người cha bởi cãi nhau với ông trước sự hiện diện của cả làng. Hắn không gọi người cha bằng danh xưng. Hắn khước từ địa vị làm con (“Tôi từng nô lệ cho ông!”). Giữa những sỉ nhục, người con cả khẳng định, “Tôi chưa bao giờ không vâng lời ông.” Hắn kết tội người cha là thiên vị (“nó được con bê; ngay cả con dê tôi cũng không có”). Hắn vu khống người em bằng cách đưa vào câu chuyện một sự buộc tội vô căn cứ là ăn chơi với bọn điếm.

Người cha phản ứng thế nào? Một lần nữa ông đối xử với đứa con hỗn hào với tình thương trìu mến trong sự khiêm tốn. Người cha gọi đứa con với danh xưng, “Con ơi,” và bảo đảm với nó rằng phần chia gia tài của nó vẫn còn nguyên. Đáp lại sự ngạo mạn, người cha tỏ ra trắc ẩn.

Hai người con trong dụ ngôn thì hiển nhiên hỗn láo giống nhau. Họ chỉ khác trong sự phản ứng của họ đối với tình thương bất ngờ và bất xứng được thấy qua người cha khiêm tốn. Cũng giống như những người con này, tất cả những ai nghe câu chuyện này đểu phải quyết định họ phải phản ứng thế nào với tình thương tha thứ.

© 2025 NGUOI TIN HUU - All Rights Reserved.NGUOITINHUU