Nguoi Tin Huu Logo
  • Trang Nhà
  • Trang Chính
    • CHIA SẺ
      • ĐỖ TRÂN DUY
      • Lm. HỒNG GIÁO
      • NGUYỄN HUỆ NHẬT
        • TỪ ÁO CÀSA ĐẾN THẬP TỰ GIÁ
        • AI CHẾT CHO AI? AI SỐNG CHO AI?
        • ĐỐI THOẠI VỚI MỘT PHẬN TỬ
      • NHIỀU TÁC GIẢ
    • DÒNG MÁU ANH HÙNG
    • ĐƯỜNG VÀO ĐẠO
    • HIỂU ĐỂ SỐNG ĐẠO
    • HÔN NHÂN CÔNG GIÁO
    • HỘ GIÁO
    • LỊCH SỬ GIÁO HỘI
    • MÁI ẤM GIA ĐÌNH
    • PHỤNG VỤ
      • Bài Giảng
      • Các Nghi Thức
    • SÁCH & TRUYỆN
  • Trang Hàng Ngày
    • GƯƠNG THÁNH NHÂN
    • SUY NIỆM HÀNG NGÀY
  • Trang Ngoài
    • VIETCATHOLIC
    • CẦU NGUYỆN BẰNG THÁNH VỊNH ĐÁP CA
    • HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VN
    • DÒNG CHÚA CỨU THẾ VN
    • DÒNG TÊN VN
    • LIÊN HIỆP BỀ TRÊN THƯỢNG CẤP VN
    • TRANG SỨ GIẢ TÌNH YÊU

Pet. Nguyễn Trọng Chức

THƯ CỦA BARNABAS

Nguồn: Holmes, Michael William: The Apostolic Fathers: Greek Texts and English Translations. Updated ed. Grand Rapids, Mich. : Baker Books, 1999, pp. 275-325.
Thảm khảo: bản dịch của nhóm Phiên Dịch Các Gờ kinh Phụng Vụ trong giờ kinh Sách của tuần XVIII mùa Thường niên: I,1-8; II,1-5 (CN); II,6-10; III,1.3; IV,10-14 (thứ hai); V,1-8; VI,11-16 (thứ ba); XIX 1-3.5-7.8-12 (thứ tư).
Cước chú: Các đoạn Kinh Thánh được trích từ Kinh Thánh, ấn bản 2011, do nhóm Phiên Dịch Các Gờ kinh Phụng Vụ dịch

DẪN NHẬP

Thư của Barnabas đại diện cho một trong những tác phẩm ra đời sớm nhất không thuộc về Tân Ước bàn đến những vấn đề mà những người theo Đức Giêsu đã phải đối mặt vào những ngày đầu sứ vụ của Người: Các Kitô hữu phải giải thích Kinh Thánh của người Do Thái như thế nào? Bản chất của mối tương quan giữa Kitô giáo và Do Thái giáo là gì? Việc viết tác phẩm này vào một thời điểm mà mức độ rạn nứt giữa giáo hội và hội đường vẫn còn tăng thêm, tác giả vô danh của tập “tiểu luận” này muốn trình bày những phương pháp giải thích Kinh Thánh theo lối phóng dụ mà các Kitô hữu  là những người thừa hưởng thật sự và được mong đợi cho giao ước của Thiên Chúa.

Mặc dù tác phẩm Barnabas trình bày dưới hình thức của một lá thư, cấu trúc theo dạng thư từ (các đoạn 1.1–8; 21.1–9) là một cách thức văn chương phổ biến. Phần lớn của tác phẩm này (đoạn 2.1–17.2) là một tiểu luận mang tính bút chiến để giải thích và thuyết phục – một số điều nào đó trong một “dịp lễ”. Trong tác phẩm này, tác giả chia sẻ với độc giả γνῶσις “gnốsis” (sự hiểu biết, tri thức) (đoạn 1.5b)1 mà chính ông đã đón nhận (đoạn 1.5a) – tức là, chất liệu truyền thống – cùng với điều ông xem là những hiểu biết sâu sắc được chọn lọc cẩn thận của riêng ông.

Trong đoạn 18.1–20.2 tác giả trình bày, như là “một sự hiểu biết và giáo huấn khác nữa”, một thị kiến về “Hai Con Đường”, một con đường của ánh sáng (đoạn 19.1–12) và một con đường của bóng tối (đoạn 20.1–2). Phần trước đó được soạn tác hầu như toàn bộ về “việc phải làm và việc không được phép làm”, trong khi phần sau là một miêu tả về những việc làm xấu xa và những kẻ dữ. Điều ấy cho thấy một ứng dụng của Kitô giáo về một hình thức phổ biến của người Do Thái trong việc hướng dẫn đời sống luân lý. Chất liệu tương tự được tìm thấy trong một số tác phẩm khác của Kitô giáo từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ năm, bao gồm cả Didache (có sự liên hệ giữa Barnabas với Didache và chủ đề “Hai Con Đường”).

Sự thống nhất giữa hai phần lớn của tác phẩm này và cấu trúc theo lối thư từ là một sự lưu tâm toàn diện về đạo đức đã hình thành theo nhãn giới cánh chung. Đó là cuộc chiến giữa thiện-ác trong “thời đại hiện tại của sự ác” (các đoạn 2.1; 4.1; 4.9) sẽ sớm (các đoạn 4.9b; 21.3) đi đến hồi kết thúc vào “thời sẽ đến” (đoạn 4.1) và cuộc phân xử đi kèm theo đó (các đoạn 4.12; 5.7; 15.5; 21.6), vì thế mà các Kitô hữu phải chuẩn bị cho điều đó. Sự kết án này làm cho những lời cổ võ có thêm phần lưu ý mang tính cấp bách được nhận thấy xuyên suốt tác phẩm này: Các Kitô hữu chẳng coi một điều gì là hiển nhiên cả (các đoạn 2.1; 4.9b; 4.13), khác với dân Israel (đoạn 4.13–14), những người được xem là một dẫn chứng tiêu cực cách thường xuyên trong tác phẩm.

Đối với dân Israel và giao ước của Thiên Chúa, tác giả của tác phẩm Barnabas khẳng định rằng dân Israel hủy bỏ giao ước vì tội thờ ngẫu tượng (các đoạn 4.8; 16.1–2), bất phục tùng (các đoạn 8.7; 9.4; 14.1–4a), và sự vô tri (họ đã giải thích luật Môsê theo nghĩa đen hơn là theo “tinh thần”, vì chủ đích [của họ] [đoạn 10.2, 9]). Bấy giờ, tác giả xác nhận các Kitô hữu là những người đích thực thừa hưởng giao ước (các đoạn 4.8; 6.19; 13.6; 14.4b–5).

Tác giả đạt được trong việc đọc ra ý hướng của luật Môsê và các ngôn sứ bằng cách dùng phương pháp chú giải theo lối phúng dụ. Trong khi làm theo lối ấy tác giả tuân theo việc chú giải truyền thống có tính cổ thời và đáng trân trọng.

Được người Hy Lạp phát triển, phương pháp theo lối phúng dụ cho rằng có sự tồn tại của ý nghĩa thiêng liêng trong bản văn đang bị che dấu và tìm cách hé mở ý nghĩa thiêng liêng ấy, mà nó [ý nghĩa thiêng liêng ấy] có thể hoàn toàn khác biệt với ý nghĩa được biểu hiện bên ngoài. Phương pháp giải thích này có một vai trò trong tất cả các hình thức được biết đến của Do Thái giáo vào thế kỷ thứ nhất, cách đặc biệt trong những tác phẩm của Philo, một người Do Thái ở Alexandria đương thời với thánh Phaolô (chính thánh nhân đã cho một ví dụ về cách tiếp cận [phương pháp này] trong Gl 4,21-31). Nhờ vào việc tiếp cận phương pháp chú giải theo lối phúng dụ này, tác giả Thư của Barnabas có thể mang đến một việc chú giải các bản văn Thánh Kinh đậm tính “Kitô giáo” mà thoạt nhìn [bản văn Thánh Kinh] có vẻ chẳng có gì liên quan đến Đức Giêsu (đoạn 9.7–8), và khẳng định rằng chỉ các Kitô hữu mới hiểu ý nghĩa thật sự của Thánh Kinh (đoạn 10.12).

Ghi Chú

1 X. Các đoạn 6.9; 9.8; 10.10; 13.7; 18.1; 19.1; cũng như các đoạn 2.3; 5.4; 11.4; 12.3; 21.5.

Tác giả, địa điểm và thời gian

Tài liệu này là một tác phẩm của một vị tôn sư vô danh (các đoạn 6.5, 9, 10b; 9.7; 13.1; 14.4; 16.1; 17.1). Chẳng có một liên hệ nào với thánh Barnabas cả, dù một vài điều được viện dẫn, thì [hai vị] vẫn hoàn toàn khác biệt.2 Tư tưởng chủ đạo bắt nguồn từ Alexandria, với nhiều quan điểm tương đồng trong cách tiếp cận và văn phong của việc chú giải giữa Do Thái Giáo và Kitô giáo ở Alexandria, và thực tế chứng nhân cựu trào nhất của tác phẩm là Clement ở Alexandria (người đã chấp nhận tác phẩm Thư của Barnabas cũng có giá trị như là Các thư công giáo).3 Tác phẩm có lẽ được viết sau khi Đền Thờ Giêrusalem bị phá hủy vào năm 70 CN (đoạn 16.3–5) và trước khi thành thánh được Hadrian xây lại sau cuộc nổi loạn vào năm 132-135 SCN. Trong phạm vi giới hạn tác phẩm này không thể nào có một sự rõ ràng hơn được nữa.4

Ghi Chú

2 X. Clayton N. Jefford, Reading the Apostolic Fathers (Peabody, Mass.: Hendrickson, 1996), 14–16.
3 P. Prigent, tác giả của tác phẩm L’Épître de Barnabé I–XVI et ses sources (Paris: Librairie Lecoffre, 1961), cho rằng tác giả là một quân nhân người Syria; K. Wengst, tác giả của tác phẩm Tradition und Theologie des Barnabasbriefes (Berlin/New York: De Gruyter, 1971), pp. 113–18, xác định tác phẩm ở phía tây của Tiểu Á.
4 J. A. T. Robinson (Redating the New Testament [Philadelphia: Westminister, 1976], 313–19) cho rằng thời gian soạn tác của tác phẩm là vào thời Vespasian vào khoảng năm 70–79 SCN; P. Richardson và M. B. Shukster (“Barnabas, Nerva and the Yavnean Rabbis,” Journal of Theological Studies 34 [1983]: 31–55); L. W. Barnard (“The ‘Epistle of Barnabas’ and Its Contemporary Setting,” ANRW 2.27.1 [Berlin/New York: De Gruyter, 1993], 159–207) đề nghị là thời Hadrian vào khoảng năm 117–138 SCN; và K. Wengst (Tradition, 105–13) đồng ý vào khoảng năm 130–132 SCN.

BẢN VĂN

Bản văn của tác phẩm Thư của Barnabas đã được phục hồi dựa trên các chứng cứ sau đây:
S          bản Sinaiticus (thế kỷ IV), bản thảo Kinh Thánh nổi tiếng được Tischendorf phát hiện, mà trong đó Thư của Barbabas được kể đến sau cuốn Khải Huyền và trước cuốn Mục Tử Hermas.
Sc         bản sửa chữa của bản Sinaiticus.
C         bản Hierosolymitanus (năm 1056 CN; trong một vài phiên bản còn viết tắt là “H”).
G         một nhóm 9 bản thảo bằng tiếng Hy Lạp, tất cả chúng đều có mối liên hệ với nhau, mà trong đó toàn bộ bản văn thư của thánh Polycarp gửi cho giáo đoàn Philipphê được nối tiếp bởi Thư của Barnabas đoạn 5,8.
P          một cảo bản chứa đoạn 9,1-6
L          bản dịch tiếng Latin (chỉ có từ đoạn 1 đến đoạn 17; còn đoạn 18 đến đoạn 21 hầu như chưa hình thành trong bản dịch này).
Thêm vào đó, Clement thành Alexandria còn lưu giữ một số lượng tương đối lớn các câu trích dẫn. Đối với phần “Hai Con Đường” (đoạn 18–21), mà Thư của Barnabas có điểm chung với Didache, xin vui lòng xem các chứng cứ được liệt kê trong phần dẫn nhập tác phẩm.
ĐOẠN 1

Thư của Barnabas

(1) Xin thân ái chào các con, nhân danh Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta, trong bình an. (2) Hãy nhìn xem sự công chính của Chúa thực hiện cho các con thật lớn lao và dồi dào phong phú biết bao, cha vui mừng khôn tả và chan chứa hân hoan vì tâm hồn [các con] được hạnh phúc và rạng ngời vinh quang; vì ân sủng thiêng liêng đã đóng ấn sâu đậm [vào tâm hồn các con] mà  các con đã đón nhận! (3) Vì vậy chính cha, là người cũng đang hy vọng sẽ được cứu độ, vui mừng sung sướng hơn nữa bởi ở nơi các con cha thật sự thấy Thánh Thần đã tuôn đổ trên các con từ nguồn mạch dồi dào phong phú của Chúa. cha đã hết sức xúc động, vì lợi ích của các con, bởi niềm khao khát muốn gặp các con! (4) Thế nên, với niềm xác tín tận thâm tâm rằng cha đã nói nhiều điều khi ở với các con, cha biết Chúa đồng hành với cha trên đường ngay nẻo chính, và trên hết5 cha cũng được thúc đẩy làm việc này là: yêu thương các con hơn chính mình cha, bởi đức tin mạnh mẽ và lòng mến nồng nàng vẫn luôn ở nơi các con, nhờ niềm hy vọng [được chia sẻ] sự sống của Người. (5) Theo như cha nhận định, nếu cha đủ quan tâm đến các con để thông truyền một số điều mà cha đã được lãnh nhận, thì cha sẽ nhận được phần thưởng cho việc phục vụ những tâm hồn như [các con], cha vội vàng cố gắng gởi đến các con một vài lời vắn tắt, ngõ hầu nhờ vào lòng tin của các con, các con cũng có thể đạt được hiểu biết hoàn hảo. (6) Quả thật, có ba điểm giáo lý căn bản của Chúa như sau: niềm hy vọng vào sự sống [đời đời] là khởi điểm và cùng đích của đức tin chúng ta; sự công chính là khởi điểm và cùng đích của cuộc phán xéy; và tình yêu được tỏ hiện trong niềm sung sướng và hân hoan, [đó là] bằng chứng cho thấy các hành động công chính. (7) Qua các ngôn sứ, Chúa đã cho chúng ta biết về những điều quá khứ và những điều hiện tại, và cũng đã cho chúng ta niếm trước những điều sẽ đến. Do đó, khi chúng ta thấy những điều tuần tự xảy ra, từ điều này đến điều khác như lời Chúa nói, chúng ta cần sống cao thượng hơn và quảng đại hơn mà thêm lòng sùng kính Chúa.6 (8) Về phần cha, [cha] không chỉ là thầy dạy nhưng còn là người giữa các con, cha xin chỉ ra một vài điều mà nhờ đó các con sẽ vui mừng trong những hoàn cảnh hiện tại.

Ghi Chú

5 “Cha đã nói nhiều điều khi ở với các con, cha biết Chúa đồng hành với cha trên đường ngay nẻo chính, và trên hết” có lẽ là “khi cha nói với các con, cha am hiểu được nhiều điều, bởi Chúa đồng hành với cha trên đường nay nẻo chính”
6 “lòng sùng kính Chúa” (reverence for him) có nghĩa đen là “lòng kính sợ Chúa” (to his fear).
ĐOẠN 2

(1) Vì vậy, khi những ngày này thuộc về ác thần và chính Kẻ Nắm Quyền7 [ác thần] đầy sức mạnh, cho nên chúng ta phải đề cao cảnh giác và tìm kiếm những luật điều công chính của Chúa. (2) Những nguồn trợ lực đức tin chúng ta là lòng kính sợ Chúa và lòng nhẫn nại chịu đựng, và những nguồn trợ thủ chúng ta là đức kiên trì và sự tự chủ. (3) Khi những điều ấy [được ai] duy trì thực hiện cách tinh tuyền trước nhan Chúa, thì đức khôn ngoan, sự thông minh, sự sáng suốt và niềm vui hiểu biết sẽ ở cùng người ấy. (4) Qua các ngôn sứ, Người đã cho chúng ta thấy rõ là Người chẳng cần hy lễ, chẳng cần lễ toàn thiêu cũng như lễ tiến, khi đã phán rằng: (5) “ ‘Những hy lễ của các người đối với ta nào nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, Ta đã ngấy. Máu bò, máu chiên dê, Ta chẳng thèm! Khi các ngươi đến trình diện Ta, ai khiến các ngươi phải giẫm lên khuôn viên của Ta? Thôi, đừng đem những lễ vật vô ích đến nữa. Ta ghê tởm khói hương; Ta không chịu nổi những ngày đầu tháng, những ngày sabát”.8 (6) Vì vậy, Người đã hủy bỏ những điều ấy, để luật mới của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, thoát khỏi ách bó buộc, có một hiến lễ không phải do tay phàm nhân thực hiện. (7) Một lần nữa Người nói với họ [dân Ítraen]: “Ta đã chẳng nói gì với chúng, Vì khi đưa cha ông các ngươi ra khỏi đất Ai cập, phải chăng ta truyền dạy chúng điều chi về lễ toàn thiêu và lễ hy sinh cả?9 (8) Nhưng điều Ta truyền cho chúng là: Đừng để một ai trong các ngươi để lòng mình chất chứa điều ác, và cũng đừng ưa chuộng thề gian.”10 (9) Thế nên, chúng ta hiểu được ý định nhân từ của Chúa Cha (nếu chúng ta không quá mu muội), bởi Người đang dạy chúng ta; Người muốn chúng ta tìm cách tiến đến gần Người, hơn là đi chệch khỏi đường lối [Chúa dạy] như họ [dân Ítraen]. (10) Người nói với chúng ta điều này: “Lạy Thiên Chúa,11 tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát,12 một hương thơm dâng lên Đức Chúa là một tâm hồn biết tôn vinh Đấng Tạo Hóa của mình”.13 Do đó, các con thân mến, chúng ta phải hết sức long lắng đến ơn cứu độ của mình, vì e rằng tên cám dỗ len lỏi vào tâm trí chúng ta mà tạo ra một vài sai lầm và bằng cách ấy lôi kéo chúng ta lạc xa sự sống.

Ghi Chú

7 “Kẻ nắm quyền” (Worker) tức là “ác thần” (evil).
8 X. Is 1,11–13: ĐỨC CHÚA phán : "Ngần ấy hy lễ của các ngươi, đối với Ta, nào nghĩa lý gì ? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, Ta đã ngấy. Máu bò, máu chiên dê, Ta chẳng thèm ! Khi các ngươi đến trình diện Ta, ai khiến các ngươi phải giẫm lên khuôn viên của Ta ? Thôi, đừng đem những lễ vật vô ích đến nữa. Ta ghê tởm khói hương ; Ta không chịu nổi ngày đầu tháng, ngày sa-bát, ngày đại hội, không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạt linh đình.
9 X. Gr 7,22-23: Vì khi đưa cha ông các ngươi ra khỏi đất Ai-cập, Ta đã chẳng nói gì với chúng, chẳng truyền dạy chúng điều chi về lễ toàn thiêu và lễ hy sinh cả. Nhưng điều Ta truyền cho chúng là : Hãy nghe tiếng Ta thì Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi, và các ngươi sẽ là dân của Ta. Hãy bước theo mọi đường lối Ta truyền dạy, để các ngươi được hạnh phúc.
10 X. Dcr 8,17: Chớ để lòng mưu điều ác hại nhau ;đừng ưa chuộng thề gian, vì Ta ghét tất cả những điều đó. Sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.
11 “Thiên Chúa” (God): bản S cũng có chi tiết này; các bản CL đọc là “Đức Chúa” (Lord).
12 X. Tv 51,19: Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng Ngài là tâm thần tan nát, một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê.
13 Không biết nguồn tài liệu; theo một ghi chú trong bản C, nó được trích từ cuốn “Khải huyền của ông Adam” (Apocalypse of Adam), mà cuốn này chẳng còn nữa.
ĐOẠN 3

(1) Vì vậy Người lại phán với họ về những điều này: “ ‘Tại sao các ngươi ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm? Đây không phải cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành thống hối; (2) ngay cả khi các ngươi cúi rạp đầu, mặc áo vải thô và nằm trên tro bụi, thì các ngươi cũng không thể gọi là ăn chay được.’ ”14 (3) Còn với chúng ta, Người phán: “ ‘Đây là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng là mở xiềng xích bất công, tháo gông cùm cưỡng bức, trả tự do cho người bị áp bức, và xé bỏ mọi khế ước bất công. Chia cơm cho người đói, và nếu ngươi thấy ai mình trần, thì cho áo mặc; rước những người không chốn nương thân vào nhà ngươi, và nếu ngươi thấy ai thấp kém, thì đừng khinh thường họ, các thành viên trong nhà hay trong gia đình mình ngươi cũng sẽ không làm như vậy. (4) Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên vào rạng đông, và vết thương15 ngươi sẽ mau lành, và đức công chính sẽ đi trước mặt ngươi, và vinh quang Đức Chúa sẽ bao bọc quanh ngươi. (5) Bấy giờ ngươi kêu lên, Đức Chúa sẽ nghe tiếng ngươi; trong khi ngươi vẫn kêu cầu, Người sẽ phán “Có Ta đây” – nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi sự áp bức, những cử chỉ đầy khinh khi và những lời càm ràm, và thực tâm nhường cơm cho kẻ đói, và thương xót một tâm hồn bị áp bức.’ ”16 (6) Cho nên, vì lý do này, hỡi anh em, Người rất mực nhẫn nại, khi thấy trước dân Người đã chuẩn bị trong Con yêu dấu của mình sẽ tin tất cả mọi điều thuần khiết, đã mạc khải trước mọi điều cho chúng ta, để chúng ta không đắm chìm bản thân bằng việc trở thành, như điều đã từng là, “những người ủng hộ” cho lề luật của họ.

Ghi Chú

14 X. Is 58,4-5: Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế ? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng ĐỨC CHÚA ?
15 vết thương: bản Sc cũng có chi tiết này; các bản CL đọc là “những mảnh áo” (garments).
16 X. Is 58,6-10: Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao : mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm ? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ ;thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục ? Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành. Đức công chính ngươi sẽ mở đường phía trước, vinh quang ĐỨC CHÚA bao bọc phía sau ngươi. Bấy giờ, ngươi kêu lên, ĐỨC CHÚA sẽ nhận lời, ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại : "Có Ta đây !" Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở gông cùm, cử chỉ đe doạ và lời nói hại người, nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói, làm thoả lòng người bị hạ nhục, thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu toả trong bóng tối, và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ.
ĐOẠN 4

(1) Do đó, chúng ta phải điều tra hoàn cảnh hiện tại thật cẩn thận và tìm kiếm những thứ có thể cứu thoát chúng ta. Vì vậy, chúng ta hãy tránh tuyệt đối tất cả những việc làm vô pháp vô thiên kẻo những việc làm vô pháp vô thiên ấy chế ngự chúng ta, và chúng ta hãy chê ghét sự dối trá của thời hiện nay, để chúng ta được yêu mến trong thời mai sau. (2) Chúng ta đừng để tâm hồn mình lơi lỏng, dẫn đến việc linh hồn có thể kết thân với những kẻ tội lỗi và ác nhân, kẻo chúng ta trở nên giống như họ. (3) Chướng ngại cuối cùng đang ở rất gần, liên quan đến điều Kinh thánh nói, như Hê-nóc nói. Vì Tôn Chủ đã rút ngắn thời gian và ngày tháng, hầu cho Con yêu dấu của Ngài có thể nhanh chóng đến gầy dựng cơ nghiệp của Ngài. (4) Và cũng có lời của vị tiên tri nói rằng: “Mười ông vua sẽ cai trị toàn cõi đất, và sau họ17 một ông vua khác sẽ chỗi dậy, vị vua này sẽ hạ bệ ba vua cách nhanh chóng.”18 (5) Tương tự như vậy, Đa-ni-ên nói, về cùng một điều: “Tôi thấy con thú thứ tư, hung ác, mạnh mẽ và đáng sợ hơn tất cả các con thú trên cõi đất,19 nó có những mười cái sừng mọc lên từ nó, và từ những cái sừng này một cái sừng nhỏ hơn mọc lên, và nó nhổ đi ba cái sừng lớn hơn cách nhanh chóng.”20 (6) Do đó, các con nên hiểu điều ấy. Hơn nữa, cha cũng hỏi các con điều này, như là một người trong số các con và là người đặc biệt yêu mến các con hơn cả chính mình cha: ngay bây giờ các con hãy đề phòng, và đừng giống như một số người; nghĩa là, đừng tiếp tục chồng chất tội lỗi của mình trong khi tuyên bố rằng giao ước của mình là giao ước không thể thay đổi được, bởi vì trên thực tế21 những người đó đã đánh mất nó hoàn toàn theo cách sau đây, khi Môsê chỉ vừa mới nhận lấy nó. (7) Vì lời Kinh Thánh nói rằng: “Ông Môsê ở trên núi không ăn không uống bốn mươi ngày bốn mươi đêm, và ông đã nhận lấy giao ước từ Đức Chúa, hai tấm bia đá do chính tay Thiên Chúa viết.”22 (8) Thế nhưng chính bởi việc quay lại với ngẫu tượng họ đã đánh mất giao ước ấy. Cho nên lời Đức Chúa phán: “Môsê, Môsê, hãy đi xuống ngay, vì dân ngươi, dân mà ngươi đã dẫn ra khỏi Aicập, đã phá bỏ Lề Luật.”23 Và Môsê đã biết điều ấy và đã ném hai tấm bia đá khỏi tay mình, và giao ước của họ bị vỡ tung từng mảnh, để giao ước của Chúa Giêsu có thể được đóng ấn trong lòng chúng ta, trong niềm hy vọng được soi dẫn bằng đức tin vào Ngài. (9) (Mặc dù cha muốn viết nhiều điều hơn nữa, không phải với tư cách là một thầy dạy mà chỉ phù hợp là một người không muốn bỏ bất cứ thứ gì chúng ta có, tuy nhiên, cha giục mình mau chóng thành người hầu tận tụy của các con.)

Do đó, chúng ta hãy đề phòng trong những ngày sau hết này, vì đức tin24 trọn đời của chúng ta sẽ chẳng ích lợi gì cho chúng ta trừ khi bây giờ, trong thời đại vô pháp vô thiên này, chúng ta cũng kháng cự chống lại những chướng ngại sắp xảy ra, khi sống đúng tư cách con cái của Chúa, kẻo điều xấu xa tìm cơ hội để lẻn vào. (10) Chúng ta hãy25 tránh xa mọi thứ phù phiếm; chúng ta hãy dứt khoát chê ghét mọi việc làm xấu xa. Đừng sống khép kín và sống riêng lẻ, như thể các con đã được công chính rồi, nhưng hãy họp lại với nhau và kiếm tìm lợi ích chung. (11) Vì lời Kinh Thánh nói rằng: “Khốn thay cho kẻ cho mình là thông thái và coi mình là khôn ngoan.”26 Chúng ta hãy trở nên con người của Thần Khí; chúng ta hãy trở nên đền thờ hoàn hảo cho Chúa. Hãy cố công gắng sức, chúng ta trau dồi lòng kính sợ Chúa và nỗ lực tuân giữ lệnh truyền của Người, để chúng ta hân hoan trong thánh ý của Người. (12) Đức Chúa sẽ phán xét thế gian mà không thiên vị. Mỗi người sẽ nhận lãnh tùy theo điều mình đã làm: nếu là người tốt, thì sự công chính của người ấy sẽ làm chứng cho; còn nếu là kẻ xấu, thì hậu quả của việc làm bất chính sẽ đón chờ người đó. (13) Chúng ta đừng ngủ say trong tội lỗi của mình, như thể “đã được Chúa gọi” là lời viện cớ cho việc lơi lỏng, để cho thần dữ thống trị và xua đuổi chúng ta ra khỏi Nước Chúa. (14) Hơn nữa, cũng hãy suy xét điều này: khi các con thấy biết bao dấu lạ điềm thiêng đã được thực hiện nơi dân Israel, thế mà họ vẫn bị bỏ rơi, chúng ta hãy coi chừng kẻo chúng ta bị kể vào số những người mà Kinh Thánh đã viết rằng: “kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.”27

Ghi Chú

17 sau họ: bản S cũng có chi tiết này; các bản CL đọc là “về sau” (afterwards).
18 X. Dn 7,7-8: Rồi vẫn trong thị kiến ban đêm, tôi đang nhìn thì kìa : con thú thứ tư đáng kinh đáng sợ và mạnh mẽ vô song ; răng của nó bằng sắt và rất to. Nó ăn, nó nghiền, rồi lấy chân chà đạp những gì còn sót lại. Nó khác hẳn tất cả các con thú trước. Nó có những mười sừng. Tôi đang chăm chú nhìn các sừng, thì kìa : giữa các sừng này, một sừng khác, nhỏ hơn, mọc lên ; và ba cái trong các sừng trước bị nhổ đi trước mặt cái nhỏ. Và kìa : có những con mắt như mắt người trên sừng ấy, và có một cái mồm nói những điều quái gở.
19 cõi đất: bản S cũng có chi tiết này; các bản CL đọc là “biển”
20 X. Dn 7,7-8: Rồi vẫn trong thị kiến ban đêm, tôi đang nhìn thì kìa : con thú thứ tư đáng kinh đáng sợ và mạnh mẽ vô song ; răng của nó bằng sắt và rất to. Nó ăn, nó nghiền, rồi lấy chân chà đạp những gì còn sót lại. Nó khác hẳn tất cả các con thú trước. Nó có những mười sừng. Tôi đang chăm chú nhìn các sừng, thì kìa : giữa các sừng này, một sừng khác, nhỏ hơn, mọc lên ; và ba cái trong các sừng trước bị nhổ đi trước mặt cái nhỏ. Và kìa : có những con mắt như mắt người trên sừng ấy, và có một cái mồm nói những điều quái gở.
21 “giao ước không thể thay đổi được, bởi vì trên thực tế”: ở đây bản văn không chắc chắn. Bản dịch ở trên theo bản dịch của C. Nhiều người chấp nhận ý nghĩa của bản L: giao ước cả của họ lẫn của chúng ta. Đây là giao ước của chúng ta, tuy nhiên…Harmer đề nghị phục hồi bản văn bằng cách đọc “giao ước của chúng ta vẫn còn với họ. Đây là giao ước của chúng ta, tuy nhiên…
22 X. Xh 34,28: Ông ở đó với ĐỨC CHÚA bốn mươi ngày bốn mươi đêm, không ăn không uống, và ông viết trên những bia các điều khoản của giao ước, tức là Thập Điều.
Xh 31,18: Sau khi phán với ông Mô-sê trên núi Xi-nai, ĐỨC CHÚA ban cho ông hai tấm bia Chứng Ước, hai tấm bia đá do chính tay Thiên Chúa viết.

23 X. Xh 32,7: ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê : "Hãy đi xuống, vì dân ngươi đã hư hỏng rồi, dân mà ngươi đã đưa lên từ đất Ai-cập.
Dnl 9,12: Bấy giờ, ĐỨC CHÚA phán với tôi : "Đứng lên ! Mau xuống khỏi đây, vì dân của ngươi đã hư hỏng rồi, dân mà ngươi đã đưa ra khỏi Ai-cập. Chúng đã vội đi ra ngoài con đường Ta đã truyền cho chúng đi. Chúng đã đúc một tượng để thờ."

24 đức tin (faith): bản S cũng có chi tiết này; bản C đọc là “cuộc đời”(life); bản L đọc là “cuộc đời và đức tin” (life and faith). Điđakê 16,2: Hãy quy tụ lại thường xuyên, tìm lợi ích cho tâm hồn anh em, vì tất cả thời gian của đức tin sẽ không đem lại gì cho anh em nếu anh không tìm kiếm sự hoàn trong thời cuối cùng này.
25 “con cái của Chúa, kẻo điều xấu xa tìm cơ hội để lẻn vào. Chúng ta hãy”: bản S cũng có chi tiết này; bản C đọc là “con cái của Chúa, kẻo điều xấu xa tìm cơ hội để lẻn vào, chúng ta hãy”.
26  X. Is 5,21: Khốn thay những kẻ coi mình là khôn ngoan, và cho mình là thông minh,
27  X. Mt 22,14: Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.
ĐOẠN 5

(1) Đây là lý do mà Chúa đã bằng lòng hiến thân chịu chết để chúng ta được tha tội và được thanh sạch nhờ máu Người được rảy trên chúng ta.28 (2) Vì thế, về mối tương quan của Người với toàn dân Israel và với cả chúng ta nữa, Kinh Thánh nói như sau: “Người đã chịu thương tích vì chúng ta phạm tội, và chịu đau đớn vì tội lỗi chúng ta; nhờ những thương tích của Người mà chúng ta được chữa lành. Người như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín trước người xén lông.”29 (3) Vậy, chúng ta phải hết lòng tạ ơn Chúa, bởi Người đã cho chúng ta am tường quá khứ, cho chúng ta khôn ngoan hiện tại; và còn những điều tương lai, không phải chúng ta không được biết. (4) Bây giờ, Kinh Thánh nói rằng: “Chẳng phải là vô lý mà người ta giăng lưới bắt chim”30 Nghĩa là kẻ đáng chịu chết nếu đã biết đường công chính mà lại tự gài bẫy chính mình trong đường tối tăm. (5) Còn điều này nữa, thưa anh em thân mến: Nếu Chúa chịu đau khổ vì tâm hồn chúng ta, dù cho Người là Chủ Tể của thế giới, là Đấng đã phán vào lúc tạo thành vũ trụ rằng: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh Chúng Ta và giống như chúng ta,”31 vậy thì làm sao Người đã chịu đau khổ trong tay phàm nhân? Xin hãy biết rằng, (6) các ngôn sứ, được ân sủng Người ban cho, đã tuyên sấm về Người. Chính Người chịu đau khổ, để có thể hủy diệt sự chết và biểu dương thực tại sự sống lại từ cõi chết, bởi thế điều cần thiết là Người tỏ hiện trong xác phàm. (7) Cũng thế, Người chịu đau khổ để có thể cứu độ theo lời đã hứa với các tổ phụ và – trong khi chuẩn bị cho mình một dân mới – đã chứng tỏ, lúc còn ở dương thế, rằng sau khi phục sinh, chính Người sẽ thực hiện cuộc phán xét. (8) Vả lại, bằng việc dạy dỗ dân Israel và thực hiện các điềm thiêng dấu lạ, Người đã rao giảng và đã yêu họ cách say đắm. (9) Và khi Người chọn cho riêng mình các tông đồ là những người được tiền định để giảng dạy tin mừng của Người, (và cũng là những người đầy tội lỗi để Người có thể chứng tỏ rằng “Người không đến để kêu gọi người công chính, nhưng là kẻ tội lỗi”32), sau đó Người mạc khải chính mình là Con Thiên Chúa. (10) Vì nếu Người đã không đến trong xác phàm, thì con người không hề được cứu độ khi hướng nhìn33 lên Ngài.34 Khi họ ngắm nhìn chỉ mặt trời thôi, thì họ không thể nhìn chằm chằm vào những tia sáng ấy, dù cho đó là việc nằm trong tầm tay người ấy và rốt cuộc sẽ không sống được nữa. (11) Thế nên, Con Thiên Chúa đến trong xác phàm vì nguyên nhân này là Người có thể hoàn thành mọi mức độ tội lỗi của những người đã giết hại các ngôn sứ của Người. (12) Do đó, Người đã gánh chịu [tội lỗi của những con người ấy]. Thiên Chúa nói rằng những thương tích trên thân thể Người là do họ: “Khi họ đánh ngục các mục tử, thì đàn chiên sẽ tan tác”.35 (13) Thế nhưng chính Người đã muốn chịu đau khổ trong cách thế này là Người chịu chết trên một cây gỗ. Bởi một ngôn sứ đã tuyên sấm điều về Người là: “Xin cứu mạng con xa khỏi lưỡi kiếm,”36 và “Toàn thân kinh hãi, vì lũ37 chứng gian đứng dậy tố con”.38 (14) Và một lần nữa Người lại nói: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn và giơ má cho người ta giật râu, và tôi trơ mặt ra như đá.”39

Ghi Chú

28 “máu Người được rảy”(his sprinkled blood): bản S cũng có chi tiết này; các bản CL đọc là“việc rảy máu của Người” (the sprinkling of his blood).
29 X. Is 53,5.7: Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm ; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành. Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca ; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng.
30 X. Cn 1,17: Thật hoàn toàn vô ích khi chim nhìn thấy lưới người giăng.
31 X. St 1,26: Thiên Chúa phán : "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất."
32 X. Mt 9,13: Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này : 'Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi."
33 “được cứu độ khi hướng nhìn”: có lẽ là “được sống sót khi họ hướng nhìn”
34 “con người không hề được cứu độ khi hướng nhìn lên Ngài”: bản S(C) cũng có chi tiết này; các bản GL đọc “làm sao con người có thể được cứu độ khi hướng nhìn lên Ngài?”
35 X. Dcr 13,7: Này gươm, hãy đứng dậy mà đánh mục tử của Ta, đánh đồng bào của Ta. Sấm ngôn của ĐỨC CHÚA các đạo binh. Hãy đánh mục tử, thì đàn chiên sẽ tan tác. Cả những con bé nhỏ, Ta cũng trở tay đánh phạt.
Mt 26,31: Bấy giờ Đức Giê-su nói với các ông : "Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy. Vì có lời đã chép : Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác.

36 X. Tv 22,21: Xin cứu mạng khỏi sa lưỡi kiếm, gỡ thân con thoát miệng chó rừng
37 “lũ, nhóm người” (bands): có lẽ “các hội đường”
38 X. Tv 119,120: Kinh hãi Chúa, con rùng mình sởn ốc, quyết định Ngài làm cho con những sợ cùng lo;
Tv 22,17: quanh con bầy chó đã bao chặt rồi. Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay,

39 X. Is 50,6-7: Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Có ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.
ĐOẠN 6

(1) Vì vậy, khi phán xét, Người đã phán gì? “Ai là người kết án ta? Hãy để hắn tranh tụng với ta. Hoặc ai là người kết tội ta? Hãy lôi người ấy ra khỏi đoàn tôi tớ của Đức Chúa. (2) Khốn cho các ngươi, bởi tất cả các ngươi sẽ mục đi như chiếc áo, và mối mọt sẽ rút rỉa các ngươi!”40  Và một lần nữa, vị tiên tri tuyên sấm, khi ông được đặt trên một nơi tựa như một phiến đá hùng mạnh mà nó có thể nghiền nát, “Này đây Ta sẽ đặt ở Xion một phiến đá vô giá làm nền móng vững bền, một phiến đá góc được tuyển chọn đặc biệt rất quý giá.” (3) Sau đó vị tiên tri còn tuyên sấm điều gì nữa? “và ai hy vọng vào41 Ngài thì sẽ sống muôn đời”42 Phải chăng niềm hy vọng của chúng dựa trên một phiến đá? Thưa là không phải thế đâu. Vị tiên tri tuyên sấm điều này vì chưng Đức Chúa đã làm cho xác phàm của vị tiên tri trở nên mạnh mẽ. Vì thế vị tiên tri tuyên sấm rằng: “Và Ngài đã làm cho tôi nên đá rắn chắc.”43 (4) Một lần nữa vị tiên tri nói: “Viên đá mà những thợ xây loại bỏ đã trở thành đá tảng góc tường.”44 Và vị tiên tri còn lại nói: “Đây là ngày vĩ đại và tuyệt vời mà Chúa đã làm ra.”45 (5) Cha đang viết cách đơn sơ giản dị để cho các con có thể hiểu được – cha là tôi tớ tận tụy với tình yêu của các con. (6) Sau đó, vị tiên tri lại còn tuyên sấm điều gì nữa? “Bọn gian ác bủa vây con, chúng bủa vây con như thể đàn ông vây quanh tổ,”46 và “còn áo trong chúng bắt thăm.” (7) Vì vậy, ngay khi Ngài sắp được hiển hiện và chịu khổ nạn về thân xác, cuộc khổ nạn của Ngài đã được tiên báo. Vì vị tiên tri tuyên sấm điều liên quan đến dân Israel: “Thật khốn cho chúng, vì chúng tự chuốc hoạ vào thân khi nói chúng ta hãy trối kẻ công chính, vì nó gây phiền phức cho chúng ta.”48 (8) Vị tiên tri khác là Môsê tuyên sấm điều gì với họ: “ĐỨC CHÚA phán với ông Môsê: Hãy vào miền đất tốt tươi, mà Đức Chúa đã hứa ban cho Ápraham, Ixaác và Giacóp, để sở hữu đất ấy làm sản nghiệp, một miền đất tràn trề sữa và mật.”49 (9) Thế nhưng giờ đây hãy học điều tri thức khôn ngoan dạy rằng: Hãy đặt niềm hy vọng50 vào Chúa Giêsu, Đấng sẽ mạc khải cho các con trong xác phàm. Vì con người là bụi đất chịu đau khổ, vì Ađam đã được hình thành từ bụi đất. (10) Do đó, “vào miền đất tốt tươi, miền đất tràn trề sữa và mật” có nghĩa là gì? Hỡi các con, chúc tụng Đức Chúa của chúng ta, Đấng ban cho chúng ta ơn khôn ngoan và hiểu biết những điều bí nhiệm của Người. Vì vị tiên tri nói một dụ ngôn liên quan đến Đức Chúa; ai có thể hiểu được điều ấy, ngoại trừ người khôn ngoan, sáng suốt và yêu mến Đức Chúa của mình? (11) Cho nên, khi Người đổi mới chúng ta bằng ơn tha tội, Người đã biến chúng ta thành những con người mới, ngõ hầu chúng ta có tâm hồn trẻ thơ, như thể Người đã tạo dựng chúng ta một lần nữa. (12) Kinh Thánh nói về chúng ta khi Thiên Chúa nói với Người Con rằng: “Chúng Ta hãy làm ra con người theo hình ảnh Chúng Ta và giống như Chúng Ta, để chúng làm bá chủ dã thú trên mặt đất, chim trời, và cá biển.” Và khi Người thấy công trình tạo dựng của mình tốt đẹp, Đức Chúa đã phán: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất.”51 Những điều ấy Người đã nói với Người Con. (13) Còn điều này nữa, cha sẽ nói với các con về việc Đức Chúa52 phán với chúng ta như thế nào. Người đã làm ra một công trình tạo dựng thứ hai trong ngày sau hết. Và Đức Chúa phán: “Này đây, Ta làm ra những cái mới như lúc ban đầu Ta đã làm.”53  Do đó, điều này phù hợp với lời vị tiên tri đã loan báo: “Hãy vào miền đất tràn trề sữa và mật, và làm chủ miền đất ấy.”54 (14) Như thế, chúng ta đã được tái tạo, như lời một vị tiên tri khác tuyên sấm: “Này đây, Đức Chúa phán, Ta sẽ lấy khỏi mình chúng [tức là, những người Thiên Chúa đã thấy trước] quả tim chai đá, và ban cho chúng một quả tim bằng thịt”,55 bởi chưng Người sắp tỏ mình trong xác phàm và cự ngụ giữa chúng ta. (15) Các con thân mến, vì tâm hồn chúng ta là nơi Chúa ngự và là đền thờ được thánh hiến. (16) Đức Chúa còn phán rằng: “Còn con, với điều gì, con sẽ bệ kiến Chúa, Đấng là Chúa của tôi và đáng được tôn vinh? Con56 sẽ tuyên xưng Chúa cho hết thảy anh em trong đại hội, và con sẽ tán dương Chúa cho hết thảy các thánh trong đại hội.”57 Vì vậy, chúng ta là những người được Chúa đã đưa vào miền đất tốt tươi. (17) Vậy tại sao Ngài ấy lại đề cập đến “sữa và mật ong”? Bởi chưng trẻ sơ sinh được nuôi dưỡng trước bằng mật ong, sau đó bằng sữa. Vì vậy, theo cách tương tự, chúng ta cũng vậy, được nuôi dưỡng bởi đức tin đã hứa ban và bởi chính lời này, sẽ sinh sống và cai trị mặt đất. (18) Bây giờ chúng ta đã nói như ở trên: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cai trị cá biển.”58 Nhưng hiện nay ai có thể thống trị dã thú, cá biển hay chim trời? Vì chúng ta phải nhận ra rằng “cai trị” có ngụ ý là một người có thẩm quyền, để ra lệnh thực sự và nắm quyền điều khiển. (19) Tuy nhiên, nếu bây giờ không phải như vậy, thì Ngài đã cho chúng ta biết khi nào sẽ đến: khi nào bản thân chúng ta đã được nên hoàn hảo và trở thành người thừa kế giao ước của Chúa.

Ghi Chú

40 X. Is 50,8-9: Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên. Ai tranh tụng với tôi ? Cùng nhau ta hầu toà ! Ai muốn kiện cáo tôi ? Cứ thử đến đây coi ! Này, có ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phù trợ tôi, ai còn dám kết tội ? Này, tất cả chúng sẽ mục đi như chiếc áo, và sẽ bị mối ăn.
41 “hy vọng vào”: bản G cũng có chi tiết này; các bản SGL đọc “tin tưởng vào” (believes in).
42 X. Is 28,16: Bởi thế, ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa phán như sau : Này đây Ta sẽ đặt ở Xi-on một phiến đá, phiến đá hoa cương, phiến đá góc vô giá làm nền móng vững bền, ai tin tưởng sẽ không hề nao núng.
43 X. Is 50,7: Có ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.
44 X. Tv 118,22: Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường.
1 Pr 2,7: Vậy vinh dự cho anh em là những người tin, còn đối với những kẻ không tin, thì viên đá thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường.

45 X. Tv 118,24: Đây là ngày CHÚA đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ.
46 X. Tv 22,17: quanh con bầy chó đã bao chặt rồi. Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay.
Tv 118,12: Chúng bủa vây tôi như thể bầy ong, chúng như lửa bụi gai cháy bừng bừng, nhờ danh CHÚA, tôi đã trừ diệt chúng.

47 X. Tv 22,19: Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn.
48 X. Is 3,9-10: Vẻ mặt của chúng là bằng chứng cáo tội chúng ; chúng khoe tội mình như Xơ-đôm, chứ không giấu giếm. Thật khốn cho chúng, vì chúng tự chuốc hoạ vào thân. Hãy nói : người công chính thật có phúc, vì kết quả việc họ làm, họ sẽ được dùng được hưởng.
49 X. Xh 33,1.3: ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê : "Ngươi hãy đi, từ nơi đây ngươi hãy đi lên cùng với dân mà ngươi đã đưa lên từ đất Ai-cập, tới đất Ta đã hứa ban cho Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, khi phán : Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi. Ta sẽ cho (các) ngươi vào một miền đất tràn trề sữa và mật ; nhưng Ta sẽ không đi lên đó cùng với (các) ngươi, vì (các) ngươi là một dân cứng đầu cứng cổ ; vì nếu cùng đi, thì e rằng Ta sẽ tiêu diệt các ngươi dọc đường !"
50 “niềm hy vọng”: các bản ScG cũng có chi tiết này; các bản SCL và Clement thành Alexandria đọc là “niềm hy vọng, nói như vậy là”
51 X. St 1,26.28: Thiên Chúa phán : "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất." Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ : "Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất."
52 Đức Chúa: bản S cũng có chi tiết này; các bản CL(G) đọc là “người ấy” (he).
53 Không biết nguồn tài liệu.
54 X. Xh 33,3: Ta sẽ cho (các) ngươi vào một miền đất tràn trề sữa và mật ; nhưng Ta sẽ không đi lên đó cùng với (các) ngươi, vì (các) ngươi là một dân cứng đầu cứng cổ ; vì nếu cùng đi, thì e rằng Ta sẽ tiêu diệt các ngươi dọc đường !"
55 X. Ed 36,26: Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt.
56 “Con…” (I…): bản S cũng có chi tiết này; các bản CGL đọc là “Người thưa: Con…” (“He says: “I…)
57 X. Tv 42,3: Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống. Bao giờ con được đến vào bệ kiến Tôn Nhan ?
Tv 22,23: Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em tất cả được hay, và trong đại hội dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương.

58 X. đoạn 6,12 ở trên.
ĐOẠN 7

(1) Vì vậy, hỡi các con trong niềm hân hoan, hãy hiểu rằng Chúa nhân lành đã mạc khải mọi sự cho chúng ta biết trước, để chúng ta có thể biết Đấng mà chúng ta phải tạ ơn và ngợi khen về mọi sự. (2) Nếu Con Thiên Chúa, Đấng là Đức Chúa và được tiền định để phán xét kẻ sống và kẻ chết, phải chịu đau khổ để những vết thương của Ngài có thể trao ban cho chúng ta sự sống, thì chúng ta hãy tin rằng Con Thiên Chúa không thể chịu đau khổ ngoại trừ ích lợi của chúng tôi.

(3) Nhưng Ngài cũng được cho uống giấm chua và mật đắng khi chịu đóng đinh. Hãy nghe xem các thầy tư tế trong đền thờ đã tiết lộ điều này như thế nào: khi mệnh lệnh Chúa truyền “bất cứ người nào không ăn chay hãm mình, thì chắc chắn sẽ chết”59 được viết ra, Chúa đã truyền lệnh đó vì chính Ngài đã định dâng thân xác đầy Thần Khí của mình như một hiến lễ làm của lễ đền thay tội lỗi của chúng ta, để lễ tế do Isaac thiết lập, người đã được hiến dâng trên bàn thờ, có thể được thành toàn. (4) Vậy Ngài nói gì nơi vị tiên tri? “Và hãy để chúng ăn thịt con dê được tiến dâng vào ngày lễ đền tội của chúng” - hãy chú ý cẩn thận! - “và tất cả các thầy từ tế (chỉ ngoại trừ họ mà thôi) hãy ăn phần nội tạng chưa rửa bằng giấm.”60 (5) Tại sao vậy? “Vì khi Ta sắp dâng thân mình làm của đền tội cho dân mới của Ta, thì các ngươi sẽ cho Ta mật đắng với giấm để uống, còn các ngươi phải ăn, trong khi dân chúng ăn chay và than khóc khi mặc vải thô và xức tro” — điều này là để chứng tỏ rằng Người phải chịu đau khổ dưới tay của họ. (6) Hãy chú ý đến lệnh Người truyền: “Hãy đem hai con dê, loại tốt và toàn vẹn mà dâng, và để vị tư tế lễ lấy một con làm lễ toàn thiêu để đền tội”.61 (7) Nhưng họ sẽ làm gì với con dê còn lại? Người phán: “con dê còn lại bị nguyền rủa.”62 Hãy để ý xem kiểu mẫu của Chúa Giêsu được mạc khải làm sao! (8) “Tất cả các ngươi sẽ phỉ nhổ nó và thúc vào nó, buộc sợi lông cừu đỏ quanh cổ nó, rồi xua đuổi nó vào hoang địa.”63 Và khi những việc này đã được thực hiện, một người chăn dê dẫn nó vào hoang đia, gỡ len và đặt nó trên một bụi cây thường gọi là cây rachia (những chồi nôn của cây mà chúng ta thường ăn khi tìm thấy chúng ở miền quê; chỉ có quả của cây rachia là ngọt).64 (9) Ý nghĩa của việc này là gì? Xin hãy lưu tâm để ý là “một con dê là cho bàn thờ, và con dê còn lại là bị nguyền rủa,” và cũng hãy  lưu tâm để ý đến con bị nguyền rủa được trao vương miện. Vì họ sẽ thấy Người vào ngày đó, mặc một chiếc áo choàng dài màu đỏ trên người, và họ sẽ nói: “Đây không phải là Người mà chúng ta đã từng đóng đinh và sỉ nhục65 khi phỉ nhổ vào Người sao? Chắc chắn chính một người đàn ông từng nói rằng ông này là Con của Thiên Chúa! ” (10) Bây giờ Người giống con dê đó như thế nào? “Hai con dê đều giống nhau, loại tốt và toàn vẹn,” vì lý do này: để khi họ nhìn thấy Người sắp đến sau đó, họ có thể ngạc nhiên về  điều tương tự của con dê. Do đó, hãy quan sát kiểu mẫu của Chúa Giêsu, Đấng đã được tiền định để chịu đau khổ. (11) Và điều đó có nghĩa gì khi họ đặt những sợi len lên giữa bụi gai? Đó là kiểu mẫu của Chúa Giêsu, được đặt ra cho Hội thánh, bởi ai muốn thu lấy những sợi len màu đỏ thì phải chịu rất nhiều đau khổ do gai nhọn khủng khiếp, và chỉ có thể đạt được nó qua cơn hoạn nạn. Tương tự như vậy, Ngài phán, “những ai muốn nhìn thấy Ta và đạt được vương quốc của Ta thì phải đón nhận Ta qua cơn hoạn nạn và đau khổ.”66

Ghi Chú

59 X. Lv 23,29: Như vậy bất cứ người nào không ăn chay hãm mình vào chính ngày đó, sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ.
60 Không biết nguồn tài liệu
61 X. Lv 16,7.9: Nó sẽ lấy hai con dê và đặt trước nhan ĐỨC CHÚA, ở cửa Lều Hội Ngộ. A-ha-ron sẽ tiến dâng con dê trúng thăm "dành cho ĐỨC CHÚA" và dùng làm lễ tạ tội.
62 X. Lv 16,8: Nó sẽ bắt thăm chọn giữa hai con dê : một thăm "dành cho ĐỨC CHÚA", một thăm "dành cho quỷ A-da-dên."
63 Không biết nguồn tài liệu
64 Dường như là một giống cây thuộc cây mâm xôi.
65 “đóng đinh và sỉ nhục” (crucified and insulted): bản S cũng có chi tiết này; các bản CGL đọc là “đóng đinh, sỉ nhục và đâm thâu” (crucified, insulting and piercing).
66 Không biết nguồn tài liệu
ĐOẠN 8

(1) Bây giờ các con nghĩ kiểu mẫu nào đã được dự định, khi Ngài truyền cho dân Israel rằng những người phạm tội cách trọn vẹn thì phải dâng một con bê (heifer), mổ thịt nó và toàn thêu nó, sau đó các đứa trẻ lấy tro bỏ vào thùng chứa, và buộc lại bằng len đỏ ở xung quanh một cái cây (hãy quan sát lại cây thánh giá và sợi len đỏ), và cầm “cây dùng để rảy” (hyssop), rồi rảy lên từng người một, để họ có thể được thanh tẩy khỏi tội lỗi của mình? (2) Hãy hiểu rằng Người đang nói với các con một cách rõ ràng như thế nào: con bê ấy (calf) là Chúa Giêsu; những người tội lỗi dâng nó là những người đã mang Người để sát hại. Sau đó, những chẳng còn tội nhân nữa; chẳng còn sự vẻ vang của tội nhân nữa.67 (3) Con trẻ cầm cây rảy là những người đã rao giảng cho chúng ta tin mừng về sự tha thứ tội lỗi và sự thanh tẩy cõi lòng, họ là những người được Ngài trao quyền rao giảng Tin Mừng;68 có mười hai người trong số họ là những chứng nhân cho các chi tộc, vì có mười hai chi tộc Israel. (4) Và tại sao có ba đứa trẻ rảy? Là những chứng nhân cho Ápraham, Isaac và Giacóp, vì những vị này rất vĩ đại trước mắt Thiên Chúa. (5) Và sau đó là vấn đề của sợi len ở trên cây: điều này biểu thị rằng triều đại của Chúa Giêsu là ở trên cây69 [thập giá], và những ai hy vọng vào Người sẽ được sống đời đời. (6) Nhưng tại sao len và “cây dùng để rảy” lại kết hợp với nhau? Bởi vì trong triều đại của Ngài sẽ có những ngày đen tối và gian ác, trong triều đại ấy chúng ta sẽ được cứu độ, vì ai chịu đau khổ nơi thân xác thì được chữa lành nhờ dòng nước màu đen được rảy từ cây ấy. (7) Vì lý do ấy, chúng ta thấy những điều này xảy ra, nhưng đối với họ thì khá mù mờ, vì họ không nghe theo tiếng Chúa.

Ghi Chú

67 “Sau đó, những chẳng còn tội nhân nữa; chẳng còn sự vẻ vang của tội nhân nữa.” (Then the men are no more; no more is the glory of sinners.): bản văn rất khó hiểu, tối nghĩa.
68 “rao giảng Tin Mừng”(to proclaim the gospel): theo nghĩa đen là “của Tin Mừng, mà họ sẽ rao giảng nó” (of the gospel, that they should proclaim it)
69 “cây”(tree): tức là “thập giá” (the cross).
ĐOẠN 9

(1) Hơn nữa, với đôi tai thành kính lắng nghe, Ngài mô tả Ngài cắt bì lòng dạ chúng ta như thế nào.70 Đức Chúa phán nơi vị tiên tri rằng: “Ngay khi chúng nghe lệnh, chúng đã tuân hành con”.71 Và một lần nữa, Ngài nói: “Người ở xa sẽ nghe bằng tai mình, và chúng sẽ biết những việc Ta làm.”72 Cũng vậy, “Hãy cắt bì lòng dạ các ngươi,”73 Đức Chúa phán. (2) Và một lần nữa Người phán: “Hỡi Israel, hãy nghe đây, vì đây là điều Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi phán.” Và một lần nữa Thần Khí của Thiên Chúa lại tuyên sấm:74 “Ai là người thiết tha được sống đời đời? Với đôi tai, ngươi ấy hãy nghe tiếng tôi tớ Ta.”75 (3) Và lại nữa Người phán: “Trời hãy nghe đây, đất lắng tai nào, vì Đức Chúa phán những điều này làm lời chứng.”76 Và một lần nữa ông nói: “Hãy nghe lời của Đức Chúa phán, hỡi các người cai trị dân này.”77 Và thêm một lần nữa Người phán: “Này các con hãy lắng nghe tiếng người hô giữa đồng hoang”78 (4) Nói tóm lại, Người cắt bì đôi tai chúng ta để khi nghe lời Người phán mà chúng ta tin.

Nhưng phép cắt bì mà họ tin tưởng đã bị bãi bỏ, vì Ngài đã tuyên bố rằng phép cắt bì không phải là chuyện thân xác. Nhưng họ không vâng lời, vì một ác thần đã “soi đường dẫn lối” họ. (5) Người phán với họ: “Đây là điều Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi phán [ở đây tôi tìm thấy một lệnh Chúa truyền]:“Đừng gieo vào gai góc, hãy cắt bì để thuộc về Đức Chúa của các ngươi.”79 Và Người phán điều gì? “Hãy cắt bì lòng chai dạ đá của các người và đừng cứng cổ nữa.”80 Còn ghi lại điều này nữa:81 “Này đây Đức Chúa phán rằng, tất cả các dân tộc là những dân chưa cắt bì, nhưng còn dân này [nhà Israel] cũng vẫn là dân chưa cắt bì trong lòng!”82

(6) Tuy nhiên các con sẽ nói: “Nhưng chắc chắn rằng dân tộc đã được cắt bì làm dấu ấn!”83 Nhưng dân Syria và dân Ả Rập và tất cả các tư tế thờ ngẫu tượng cũng đều bị cắt bì; phải chăng điều này có nghĩa là họ cũng thuộc về giao ước của họ? Tại sao, ngay cả dân Ai Cập cũng thực hành việc cắt bì!

(7) Hỡi các con yêu dấu, hãy học hỏi thêm về mọi điều: Ápraham, người đầu tiên làm phép cắt bì, đã trông đợi Chúa Giêsu trong tinh thần khi ông cắt bì, đã nhận được sự giáo huấn của chữ cái này. (8) Vì có lời nói rằng: “Và Ápraham cắt bì cho “mười”, “tám” và “ba trăm” người trong nhà ông.”84 Vậy thì ông được trao ban tri thức gì? Hãy quan sát điều đề cập đến “mười và tám” trước, và sau là một khoảng giữa “ba trăm.” Đối với “mười và tám”, chữ cái “I” là “số mười” và chữ cái “H” là “số tám”;85 do đó các con có “Giêsu.”86 Và bởi vì thập tự giá, có hình dạng giống như chữ “T”, được tiển định để thông truyền ân sủng, nên nó cũng đề cập đến “ba trăm”. Vì vậy, ông tiết lộ Chúa Giêsu trong hai chữ cái, và thập tự giá trong chữ còn lại. (9) Ông Ápraham, người đã đặt trong chúng ta ân sủng được đính liền trong giao ước87 của mình, hiểu được ý nghĩa ấy. Chưa ai học được từ cha một lời đáng tin cậy hơn thế, nhưng cha biết rằng các con xứng đáng với điều ấy.

Ghi Chú

70 X. đoạn 9,4 ở dưới.
71 X. Tv 18,45: vừa nghe con ra lệnh, chúng đã tuân hành. Người nước ngoài cầu thân nịnh bợ,
72 X. Is 33,13: Người ở xa, hãy nghe biết việc Ta làm, kẻ ở gần, khá nhận rằng sức Ta hùng mạnh."
73 X. Gr 4,4: Hỡi người Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem, hãy cắt bì để thuộc về ĐỨC CHÚA, hãy cắt bì lòng dạ các ngươi ; nếu không, cơn giận của Ta sẽ bừng lên như lửa. Vì những việc gian ác của các ngươi, cơn giận ấy sẽ thiêu đốt mà không ai giập tắt được.
74 “Và một lần nữa Thần Khí của Thiên Chúa lại tuyên sấm” (And again the Spirit of the Lord prophesies): các bản GLP cũng vậy; các bản SC thiếu sót câu này.
75 X. Tv 34,13: Ai là người thiết tha được sống, ước ao hưởng chuỗi ngày hạnh phúc chứa chan ?
Is 50,10: Ai trong các ngươi kính sợ ĐỨC CHÚA, nghe theo tiếng tôi tớ của Người, ai đi trong bóng tối, không một tia sáng nào chiếu rọi, hãy tin tưởng vào danh ĐỨC CHÚA và tìm nương tựa nơi Thiên Chúa mình thờ.
Xh 15,26: Người phán : "Nếu ngươi thực sự nghe tiếng ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, nếu ngươi làm điều ngay chính trước mắt Người, nếu ngươi lắng tai nghe các mệnh lệnh của Người, và giữ mọi thánh chỉ của Người, thì Ta sẽ không giáng xuống ngươi bệnh hoạn nào như Ta đã giáng xuống Ai-cập. Vì Ta là ĐỨC CHÚA, Đấng chữa lành ngươi."

76 X. Is 1,2: Trời hãy nghe đây, đất lắng tai nào, vì ĐỨC CHÚA phán : "Ta đã nuôi nấng đàn con, cho chúng nên khôn lớn, nhưng chúng đã phản nghịch cùng Ta.
77 X. Is 1,10: Hỡi những kẻ làm đầu Xơ-đôm, hãy nghe lời ĐỨC CHÚA phán. Hỡi dân Gô-mô-ra, hãy lắng tai nghe Thiên Chúa chúng ta dạy bảo.
78 X. Is 40,3: Có tiếng hô : "Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho ĐỨC CHÚA, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta.
79 X. Gr 4,3-4: Vì ĐỨC CHÚA phán thế này với người Giu-đa và Giê-ru-sa-lem : Vỡ đất hoang đi và đừng gieo vào gai góc ! Hỡi người Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem, hãy cắt bì để thuộc về ĐỨC CHÚA, hãy cắt bì lòng dạ các ngươi ; nếu không, cơn giận của Ta sẽ bừng lên như lửa. Vì những việc gian ác của các ngươi, cơn giận ấy sẽ thiêu đốt mà không ai giập tắt được.
80 X. Dnl 10,16: Vậy anh em hãy cắt bì tâm hồn anh em và đừng cứng cổ nữa.
81 “Còn ghi lại điều này nữa” (take this again): các bản SC cũng có chi tiết này; các bản G(P) đọc là “lại nữa” (again); bản L đọc là “Và một lần nữa Ngài phán”(And again he says).
82 X. Gr 9,25: Ai-cập, Giu-đa, Ê-đôm, con cái Am-mon, Mô-áp, tất cả những kẻ cạo tóc hai bên thái dương đang cư ngụ trong sa mạc. Quả thật, tất cả các dân đó đều là những dân không cắt bì, và toàn thể nhà Ít-ra-en cũng là dân không cắt bì trong lòng.
83 “dấu ấn”(seal): tức là “của giao ước” (of the covenant).
84 X. St 14,14: Khi nghe tin người anh em họ hàng của mình bị bắt, ông Áp-ram liền huy động những người đã được tập luyện, là các tôi tớ sinh ra trong nhà ông, đến ba trăm mười tám người, và đuổi theo đến tận Đan.
St 17,23: Ông Áp-ra-ham dẫn Ít-ma-ên con ông, mọi nô lệ sinh trong nhà ông và nô lệ mua bằng bạc, mọi đàn ông con trai trong số người nhà của ông, đem đi cắt bì nơi bao quy đầu của họ trong chính ngày ấy, như Thiên Chúa đã phán với ông.

85 Trong tiếng Hy Lạp các chữ cái trong bảng chữ cái có giá trị tương ứng với một số (A= 1; B = 2, Γ = 3, v.v); ở đây H = 8, I = 10; T = 300.
86 Tức là IH là hai chữ cái đầu tiên (một hình thức rút gọn không thông dụng) của hình thức Hy Lạp của tên “Giêsu” (ΙΗΣΟΥΣ) (iesous) và được tác giả hiểu là đại diện cho toàn bộ tên “Giêsu”.
87 “giao ước”: các bản SC cũng có chi tiết này; các bản GL đọc là “giáo huấn” (teaching).
ĐOẠN 10

Bây giờ, khi Môsê nói: “Các ngươi không được ăn thịt heo, hoặc đại bàng, diều hâu hay quạ, hay bất kỳ loài cá nào không có vảy,”88 theo cách hiểu đúng thì ông đã nhận được ba mệnh lệnh Chúa truyền. (2) Hơn nữa, ông nói với họ trong sách Đệ Nhị Luật rằng: “Ta sẽ lập giao ước với dân này các mệnh lệnh Ta truyền.”89 Vì vậy, không phải mệnh lệnh Chúa truyền là họ không được ăn; đúng hơn là Môsê đã nói về điều thiêng liêng. (3) Theo đó, ông ấy đề cập đến loài heo vì lý do này: theo ý ông ấy, ngươi không được kết giao với những kẻ như vậy, những người có lối sống giống như loài heo. Nghĩa là khi sung túc, chúng lãng quên Chúa, nhưng khi thiếu thốn, chúng nhìn nhận Chúa, giống như loài heo, nó không để ý đến chủ khi cho nó ăn, nhưng khi đói nó kêu eng éc và chỉ im lặng sau khi được cho ăn lại. (4) “Các ngươi cũng không được ăn đại bàng và chim ưng, diều hâu và quạ.” Ý ông là ngươi không được kết giao với hoặc thậm chí có lối sống tương tự với những người như vậy, những người không biết kiếm ăn cho bản thân bằng sức lao động và đổ mồ hôi mà lại cướp bóc tài sản của người khác một cách vô pháp; quả thật, dù chúng đi lại với vẻ ngoài ngây thơ, nhưng chúng vẫn cẩn thận quan sát và tìm kiếm những người khác để cướp của theo lòng tham của mình, giống như những con chim này không kiếm ăn cho mình mà chỉ ngồi im để tìm cách ăn thịt của những người khác — họ không hơn gì những con vật gây hại mang trong mình sự gian ác. (5) ông nói: “Và ngươi sẽ không được ăn lươn biển, bạch tuộc cũng như mực nang.”90 Ý ông là ngươi không được giống như91 những người như vậy, những người tàn nhẫn độc ác và đã bị kết án tử, tựa như những loài cá này bị nguyền rủa và bơi dưới vực sâu, không bơi như những loài cá khác mà sống trong bùn bên dưới vực sâu. (6) Hơn nữa, “Ngươi không được ăn thịt thỏ.” Tại sao? Ý ông là đừng trở thành kẻ làm chuyện đồi bại với các thanh thiếu niên, hoặc thậm chí giống những người như vậy, bởi vì mỗi năm loài thỏ lại đào thêm một hang khác, và do đó có bao nhiêu hang là có bấy nhiêu tuổi. (7) Một lần nữa, “Ngươi cũng không được ăn linh cẩu.”92 Ý ông là đừng trở thành một kẻ ngoại tình hay một kẻ quyến rũ, hoặc thậm chí có lối sống giống những người như vậy. Tại sao? Bởi vì loài vật này thay đổi bản tính của mình từ năm này qua năm khác, và trở thành con đực, con cái lúc này lúc nọ. (8) Nhưng ông cũng ghét con chồn, và có lý do chính đáng. Ý ông là đừng trở nên giống như những người, mà chúng ta nghe nói, với ý định vô luân quan hệ khẩu dâm mà bị cấm, cũng như không được kết giao với những hạng phụ nữ quan hệ khẩu dâm mà bị cấm. Vì loài vật này thụ thai qua miệng của chúng.

(9) Sau đó, liên quan đến vấn đề thực phẩm, ông Môsê nhận ba mệnh lệnh Chúa truyền với ý nghĩa này và nói theo nghĩa thiêng liêng, nhưng vì ham muốn theo tính xác thịt nên dân chúng chấp nhận các mệnh lệnh ấy cứ như là các mệnh lệnh ấy quy định cho thực phẩm trong thực tế. (10) Vua Đavít cũng nhận được sự hiểu biết về ba ba mệnh lệnh Chúa truyền tương tự, và nói: “Phúc cho ai đã không nghe theo lời khuyên của phường vô đạo” —tựa như những loài cá di chuyển trong bóng tối dưới vực sâu; “Và đã không đi theo đường lối quân tội lỗi” – tựa như những người giả vờ kính sợ Chúa đã phạm tội như loài heo; “Và không ngồi vào chỗ của bọn ác nhân” — tựa như những loài chim ngồi chờ cướp bóc. Bây giờ bạn có toàn bộ câu chuyện liên quan đến thực phẩm.

(11) Một lần nữa, Môsê lại nói: “Hãy ăn bất cứ loài nào có chân chẻ làm hai móng và thuộc loài nhai lại”.93 Tại sao ông nói điều này? Bởi khi ai nhận lãnh thức ăn, người ấy sẽ biết ai đang nuôi dưỡng mình, và trông cậy vào người đó, hỷ hoan vui mừng với người đó.94 Ông cũng đã nói rõ mệnh lệnh Chúa truyền này. Vậy thì, ý ông là gì? Hãy kết giao với những người có lòng kính sợ Chúa, với những người suy niệm trong lòng về ý nghĩa đặc biệt của lời mà họ đã lãnh nhận, với những người rao giảng và tuân theo các mệnh lệnh Chúa truyền, với những người biết rằng việc suy niệm là một việc của niềm vui và những ai suy ngẫm lời của Chúa. Nhưng tại sao ông lại đề cập đến “chân chẻ làm hai móng”? Vì người công chính không chỉ sống ở thế gian này mà còn mong chờ thời thánh thiện sẽ đến. Hãy quan sát ông Môsê quả là một nhà ban hành luật khôn ngoan biết bao! (12) Nhưng làm sao dân chúng có thể nắm bắt hoặc hiểu được những điều này? Tuy nhiên, chúng ta, sau khi hiểu đúng các mệnh lệnh Chúa truyền, hãy giải thích chúng theo ý định của Chúa. Ngài cắt bì cho chúng ta vì mục đích này, ngõ hầu chúng ta có thể hiểu được những điều này.

Ghi Chú

88 X. Dnl 14,8-14
89 X. Dnl 4,10.13: Ngày mà anh (em) đứng trước mặt ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), tại núi Khô-rếp, ĐỨC CHÚA đã phán bảo tôi : "Hãy tập hợp dân lại cho Ta ; Ta sẽ cho chúng nghe những lời của Ta, để chúng học cho biết kính sợ Ta mọi ngày chúng sống trên mặt đất, và để chúng dạy cho con cái chúng." Người đã thông báo cho anh em giao ước của Người, giao ước mà Người truyền cho anh em đem ra thực hành, đó là mười lời Người viết trên hai bia đá.
90 Không biết nguồn tài liệu.
91 “giống như” (resemble): các bản SC cũng có chi tiết này; các bản GL thể “bằng việc cộng tác với” (by associating with).
92 Không biết nguồn tài liệu
93 X. Lv 11,3: Mọi con vật có chân chẻ làm hai móng và thuộc loài nhai lại, thì các ngươi được ăn.
; Dnl 14,6: Mọi con vật có chân chẻ làm hai móng và thuộc loài nhai lại, thì anh (em) được ăn.

94 “Bởi khi nhận lãnh thức ăn, người ấy sẽ biết ai đang nuôi dưỡng mình, và trông cậy vào người đó, hỷ hoan vui mừng với người đó” có lẽ là “bởi ai lãnh nhận thức ăn thì sẽ biết ai là người cho mình thức ăn, sẽ nhớ người đó và hy hoan vui mừng với người đó”
ĐOẠN 11

(1) Nhưng chúng ta hãy hỏi xem Chúa có quan tâm đến việc tiên báo về nước và thập tự giá hay không. Bây giờ, liên quan đến nước, có người viết đến Israel rằng họ sẽ không bao giờ chấp nhận phép rửa mang lại sự tha thứ tội lỗi, nhưng sẽ tự mình tạo ra một phép rửa khác thay thế. (2) Vì thế vị tiên tri tuyên sấm: “Này trời, hãy kinh khiếp, đất hãy rùng mình kinh hãi, vì dân này đã làm hai điều ác: họ bỏ rơi ta, nguồn mạch sự sống, và tự đào hố tử thần để chôn mình.”95 (3) “Núi thánh Sinai của Ta có phải là sa mạc sỏi đá không? Vì thế các ngươi sẽ như chim non chập chờn khi bị ném khỏi tổ.”96 (4) Một lần nữa, vị tiên tri lại tuyên sấm: “Ta sẽ đi trước mặt ngươi, san bằng các đồi núi, phá tan các cửa đồng, bẻ gãy từng mảnh các song sắt, Ta sẽ ban cho ngươi những kho tàng nằm trong bóng tối, giấu kín, không thấy được, để chúng  biết rằng Ta là Đức Chúa.”97 Và: “Ngươi sẽ trú ẩn trong một hang núi đá” (5) Và: “Nước của Người sẽ không bao giờ thiếu; ngươi sẽ thấy Vua trong vinh quang, và linh hồn ngươi sẽ suy gẫm về lòng kính sợ Chúa”.98 (6) Và một vị tiên tri khác lại tuyên sấm rằng: “Còn ai làm những việc này, thì sẽ tựa như cây trồng bên dòng nước, sẽ kết trái đúng mùa, lá không bao héo và bất cứ thứ gì, anh ấy sẽ đều thịnh vượng. (7) Còn phường vô đạo sẽ không được như vậy; thay vào đó chúng giống như bụi bị gió thổi đi khỏi mặt đất. Vì vậy, phường vô đạo sẽ không đứng vững trong cuộc phán xét, cũng như quân tội lỗi chẳng thể họp đoàn với người công chính, vì Đức Chúa biết đường người công chính, và còn đường phường vô đạo sẽ bị diệt vong.”99 (8) Hãy để ý vị tiên tri ám chỉ đến nước và thập giá với nhau như thế nào. Vì đây là điều ông muốn nói: Phúc thay cho những ai, đặt niềm hy vọng vào thập giá, đã bước xuống dòng nước, bởi vì ông nói về phần thưởng “đúng mùa”; lúc đó ông có ý nói, Ta sẽ ban thưởng. Nhưng bây giờ ông nói gì? “Những chiếc lá sẽ không khô héo.” Ông muốn nói rằng mọi lời xuất ra từ miệng bạn trong đức tin và trong đức ai sẽ mang lại sự hoán cải và niềm hy vọng cho nhiều người. (9) Và một lần nữa ở một vị tiên tri khác, ông tuyên sấm: “Và miền đất Giacóp sẽ được ca tụng hơn bất cứ miền đất nào.” Điều này có nghĩa là ông đang ca ngợi thân xác đầy thần khí của mình. (10) Sau đó ông nói gì? “Bên hữu ngạn có một con sông chảy, cây cối đẹp đẽ mọc lên từ đó, kẻ nào ăn chúng sẽ sống đời đời”.100 (11) Ý của ông là trong khi chúng ta bước xuống dòng nước đầy tội lỗi và dơ bẩn, chúng ta sẽ vươn lên sinh hoa kết trái trong lòng, với lòng kính sợ Chúa và niềm hy vọng vào Chúa Giêsu trong lòng dạ chúng ta. “Và ai ăn chúng sẽ được sống đời đời” có nghĩa là thế này: ông nói rằng bất cứ ai nghe những điều này đã được nói và tin vào những điều ấy thì sẽ sống đời đời.

Ghi Chú

95 X. Gr 2,12-13: Này trời, hãy kinh khiếp về chuyện đó, hãy run sợ cho hồn xiêu phách lạc, -sấm ngôn của ĐỨC CHÚA, vì dân Ta đã phạm hai tội : chúng đã bỏ Ta là mạch nước trường sinh để làm những hồ nứt rạn, không giữ được nước.
96 X. Is 16,1-2: Hãy gửi con chiên của người cầm đầu xứ sở từ Xe-la qua sa mạc đến núi của thiếu nữ Xi-on. Bấy giờ, tại khúc cạn Ác-nôn, thiếu nữ Mô-áp sẽ chạy trốn như đàn chim vỡ tổ.
97 X. Is 45,2-3: Đức Chúa phán thế này : Chính Ta sẽ đi trước mặt ngươi, nơi gồ ghề, Ta sẽ san phẳng, cửa đồng, Ta đập phá, then sắt, Ta bẻ tung. Ta sẽ ban tặng ngươi những kho tàng bí ẩn, những bảo vật giấu kín, để ngươi biết rằng Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, Đấng đã gọi ngươi đích danh.
98 21 X. Is 33,16-18: Người như thế sẽ được ở non cao, có đồn trên núi đá làm nơi trú ẩn. Bánh ăn sẽ được luôn cung cấp, nước uống chẳng lo thiếu bao giờ. Mắt bạn sẽ chiêm ngưỡng một đức vua trong vẻ đẹp của người, sẽ thấy một miền đất trải rộng. Lòng bạn sẽ hồi tưởng lại nỗi kinh hoàng : "Đâu rồi viên ký lục ? Đâu rồi người thu thuế ? Đâu rồi người thanh tra các tháp canh ?"
99 X. Tv 1,3-6: Người ấy tựa cây trồng bên dòng nước, cứ đúng mùa là hoa quả trổ sinh, cành lá chẳng khi nào tàn tạ. Người như thế làm chi cũng sẽ thành. Ác nhân đâu được vậy : chúng khác nào vỏ trấu gió thổi bay. Nên ngày xử án, bọn ác nhân làm sao đứng vững, quân tội lỗi đâu được hợp đoàn với chính nhân ! Vì CHÚA hằng che chở nẻo đường người công chính, còn đường lối ác nhân đưa tới chỗ diệt vong.
Không biết nguồn tài liệu; x. Ed 47,1-12:  Người ấy dẫn tôi trở lại phía cửa Đền Thờ, và này : có nước vọt ra từ dưới ngưỡng cửa Đền Thờ và chảy về phía đông, vì mặt tiền Đền Thờ quay về phía đông. Nước từ phía dưới bên phải Đền Thờ chảy xuống phía nam bàn thờ. Người ấy đưa tôi ra theo lối cổng bắc và dẫn tôi đi vòng quanh theo lối bên ngoài, đến cổng ngoài quay mặt về phía đông, và này : nước từ phía bên phải chảy ra. Người ấy đi ra phía đông, tay cầm dây đo, đo năm trăm thước rồi dẫn tôi đi qua nước : nước ngập đến mắt cá chân. Người ấy đo năm trăm thước nữa rồi dẫn tôi đi qua nước : nước ngập đến đầu gối. Người ấy lại đo năm trăm thước nữa rồi dẫn tôi đi qua nước : nước ngập đến ngang lưng. Người ấy còn đo năm trăm thước nữa : đó là một con sông, tôi không thể đi qua được vì nước đã dâng cao, khiến không thể đi qua mà chỉ bơi mới được thôi. Người ấy bảo tôi : "Ngươi có thấy không, hỡi con người ?" Rồi người ấy dẫn tôi trở lại bờ sông. Khi tôi trở lại, thì này : có rất nhiều cây cối ở hai bên bờ sông. Người ấy bảo tôi : "Nước này chảy về miền đất phía đông, xuống vùng A-ra-ba, rồi đổ ra biển Chết và làm cho nước biển hoá lành. Sông chảy đến đâu thì mọi sinh vật lúc nhúc ở đó sẽ được sống. Sẽ có rất nhiều cá, vì nước này chảy tới đâu, thì nó chữa lành ; sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống. Sẽ có nhiều ngư phủ sinh sống ở trên bờ. Từ Ên Ghe-đi cho tới Ên Éc-la-gim sẽ toàn là bãi phơi lưới. Cá ở đây cũng nhiều và đủ loại như cá ở Biển Lớn. Nhưng đầm lầy của nó sẽ không hoá ra lành mà chỉ dùng để lấy muối. Trên hai bờ sông sẽ mọc lên mọi giống cây ăn trái, lá không bao giờ tàn, trái không bao giờ hết : mỗi tháng các cây đó sẽ sinh trái mới nhờ có nước chảy ra từ thánh điện. Trái dùng làm lương thực còn lá để làm thuốc."
ĐOẠN 12

(1) Tương tự, Chúa lại đưa ra lời giải thích về thập giá nơi một vị tiên tri khác, vị tiên tri tuyên sấm : “Và khi nào những điều này sẽ được hoàn thành? Chúa nói: “Khi một cái cây ngã xuống và trồi lên lại, và khi máu chảy ra từ cây ấy.”101 Một lần nữa bạn có một tham chiếu về thập giá và về Người đã được tiền định để chịu đóng đinh. (2) Và một lần nữa Người nói với Môsê,102 khi dân ngoại dấy lên chiến tranh chống lại dân Israel, và để Người nhắc nhở những người đang bị tấn công rằng họ đã lọt vào tay tử thần vì tội lỗi của họ, Thần Khí nói với lòng dạ Môsê rằng ông nên làm một biểu tượng về thập giá và về Đấng sẽ phải chịu số phận đau khổ bởi vì, Thiên Chúa phán rằng, trừ khi họ đặt niềm hy vọng vào Đấng ấy, chiến tranh sẽ được dấy lên để chống lại họ mãi mãi. Vì vậy, Môsê chất đống khiên này lên khiên khác giữa trận chiến, và đứng trên một điểm cao, ông dang tay ra, cho nên Israel lại chiến thắng. Nhưng bất cứ khi nào ôgn hạ tay xuống, thì dân lại bị giết.103 (3) Tại sao thế? Thưa là để cho họ biết rằng họ không thể được cứu trừ khi họ đặt hy vọng vào Người. (4) Và một lần nữa ở nơi một vị tiên tri khác, Chúa phán: “Suốt ngày, Ta đã giang tay với một dân ngỗ nghịch, một dân chống lại đường lối công chính của Ta”.104 (5) Một lần nữa, Môsê làm biểu tượng của Chúa Giêsu - cho thấy rằng Ngài phải chịu đau khổ, và chính Người mà họ nghĩ rằng họ đã tiêu diệt thì sẽ ban sự sống - trong một dấu chỉ được ban cho khi dân Israel sa ngã. Vì Chúa đã khiến loài rắn độc cắn họ, và họ bị trừng phạt (kể từ khi cuộc sa ngã105 xảy ra bởi loài rắn, với sự giúp đỡ của Eva), để Người có thể thuyết phục họ rằng họ đã lọt vào tay tử thần vì họ đã phạm tội. (6) Thật vậy, mặc dù chính Môsê đã truyền lệnh rằng: “Các ngươi không được đúc hay tạc tượng hình Đức Chúa của mình”,106 tuy nhiên chính ông đã làm một biểu tượng để cho dân thấy một biểu tượng của Chúa Giêsu. Vì vậy, Môsê đã làm một con rắn bằng đồng và dựng nó lên để dễ thấy, và truyền lền dân chúng tụ họp lại. (7) Khi tụ họp lại, dân khẩn xin Môsê cầu nguyện cho họ, để họ được chữa lành. Nhưng Môsê nói với họ: “Bất cứ khi nào,” ông nói, “ai trong số các ngươi bởiắn cắn, hãy đem người ấy đến với con rắn được treo trên cột gỗ,107 người ấy hãy hy vọng và tin rằng dù khi con rắn ấy đã chết, nhưng nó vẫn có thể ban sự sống, và người ấy sẽ được cứu chữa ngay lập tức.” Và họ đã làm như vậy.108 Một lần nữa trong những điều này các con có được sự vinh quang của Chúa Giêsu, bởi vì mọi sự đều ở trong Người và cho Người.

(8) Một lần nữa, ông Môsê nói điều gì với ông “Giêsu”109, con trai ông Nun, khi ông Môsê đặt cho ông cái tên này, khi ông Môsê là một vị tiên tri, với mục đích duy nhất là mọi người có thể nghe thấy rằng Chúa Cha đang mạc khải mọi điều về Con của mình là Đức Giêsu? (9) Ông Môsê nói với ông “Giêsu”, con trai ông Nun, khi ông Môsê đặt cho ông cái tên này dịp ông Môsê sai ông đi dò xét vùng đất, “Hãy cầm một cuốn sách trong tay và viết vào đó những gì Đức Chúa phán, rằng trong những ngày sau hết, Con Thiên Chúa sẽ cắt đứt tất cả gốc rễ của nhà Amalếch.”110 (10) Hãy quan sát một lần nữa để biết rằng đó là Chúa Giêsu, không phải con của loài người mà là Con của Thiên Chúa, và đã tỏ mình trong xác phàm bằng một biểu tượng.

Tuy nhiên, họ sẽ nói rằng Đấng Mêsia là con vua Đavít, chính vua Đavít, sợ hãi và nhận biết lỗi lầm của tội nhân, đã nói tiên tri rằng: “Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi rằng: Hãy ngự trị bên hữu Cha đây cho đến khi Cha đặt kẻ thù làm bệ dưới chân con.”111 (11) Và một lần nữa, Isaia tuyên sấm như sau: “ Đức Chúa phán cùng Đấng Mêsia, Chúa Thượng tôi, tay phải của nó Ta đã cầm lấy, rằng các dân tộc sẽ vâng lời nó, và Ta sẽ đập tan sức mạnh của các vua.”112 Hãy quan sát vua Đavít gọi Đấng Mêsia là “Đức Chúa” như thế nào, chứ không gọi là “con”.

Ghi Chú

101 X. 4 Etra 4,33; 5.5
102 “với Môsê”: các bản SC cũng có chi tiết này; các bản GL viết là “trong Môsê” nghĩa là “trong Ngũ Thư”.
103 X. Xh 17,8-13: A-ma-lếch đến đánh Ít-ra-en tại Rơ-phi-đim. Ông Mô-sê bảo ông Giô-suê : "Anh hãy chọn một số người, và ngày mai ra đánh A-ma-lếch. Còn tôi, tôi sẽ đứng trên đỉnh đồi, tay cầm cây gậy của Thiên Chúa." Ông Giô-suê làm như ông Mô-sê đã bảo : ông đã giao chiến với A-ma-lếch, còn các ông Mô-sê, A-ha-ron và Khua thì lên đỉnh đồi. Khi nào ông Mô-sê giơ tay lên, thì dân Ít-ra-en thắng thế ; còn khi ông hạ tay xuống, thì A-ma-lếch thắng thế. Nhưng ông Mô-sê mỏi tay, nên người ta lấy một hòn đá kê cho ông ngồi, còn ông A-ha-ron và ông Khua thì đỡ tay ông, mỗi người một bên. Nhờ vậy, tay ông Mô-sê cứ giơ lên được mãi, cho đến khi mặt trời lặn. Ông Giô-suê đã dùng lưỡi gươm đánh bại A-ma-lếch và dân của ông ta.
104 X. Is 65,2: Suốt ngày Ta đưa tay kêu gọi một dân ngỗ nghịch, bọn người theo ý riêng mà đi trong đường tà. Đối với tác giả, đôi tay dang ra báo trước việc đóng đinh.
105 “cuộc sa ngã” có nghĩa đen là “việc phạm tội”.
106 X. Lv 26,1 Các người không được làm ra các tà thần mà thờ, không được dựng tượng và trụ đá để mà thờ, không được đặt trong đất các ngươi hình tượng bằng đá để sụp lạy chúng, vì Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi;
Dnl 27,15: Đáng nguyền rủa thay người tạc tượng đúc tượng -điều ghê tởm đối với ĐỨC CHÚA, đồ vật do tay thợ làm ra- và đặt ở nơi bí mật mà thờ ! Toàn dân sẽ thưa : A-men !

107 “cột gỗ” có nghĩa đen là “cái cây”, tức là biểu tượng khác của thập giá.
108 X. Ds 21,4-9: Từ núi Ho, họ lên đường theo đường Biển Sậy, vòng qua lãnh thổ Ê-đôm ; trong cuộc hành trình qua sa mạc, dân Ít-ra-en mất kiên nhẫn. Họ kêu trách Thiên Chúa và ông Mô-sê rằng : "Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập, để chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống ? Chúng tôi đã chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này." Bấy giờ ĐỨC CHÚA cho rắn độc đến hại dân. Chúng cắn họ, khiến nhiều người Ít-ra-en phải chết. Dân đến nói với ông Mô-sê : "Chúng tôi đã phạm tội, vì đã kêu trách ĐỨC CHÚA và kêu trách ông. Xin ông khẩn cầu ĐỨC CHÚA để Người xua đuổi rắn xa chúng tôi." Ông Mô-sê khẩn cầu cho dân. ĐỨC CHÚA liền nói với ông : "Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống." Ông Mô-sê bèn làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống;
Ga 3,14-15: Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.

109 “Giêsu” là tên theo tiếng Hy Lạp của tên “Giôsuê”.
110 X. Xh 17,14: ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê : "Hãy chép lại việc này vào sách để lưu niệm và hãy nói vào tai Giô-suê rằng : Ta sẽ xoá hẳn tên tuổi A-ma-lếch, khiến cho thiên hạ không còn nhớ đến nó nữa."
111 Tv 110,1: Sấm ngôn của ĐỨC CHÚA ngỏ cùng Chúa Thượng tôi : "Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân con."
112 X. Is 45,1: ĐỨC CHÚA phán với kẻ Người đã xức dầu, với vua Ky-rô - Ta đã cầm lấy tay phải nó, để bắt các dân tộc suy phục nó, Ta tước khí giới của các vua, mở toang các cửa thành trước mặt nó, khiến các cổng không còn đóng kín nữa.
ĐOẠN 13

(1) Bây giờ chúng ta hãy xem liệu dân hiện nay hay dân trước đây là dân thừa kế, và liệu giao ước dành cho chúng ta hay cho họ. (2) Vậy, hãy nghe Kinh Thánh nói gì về “dân thừa kế”: “Và ông Isaac đã cầu nguyện cho Rebecca, vợ ông, vì bà đã son sẻ; và bà đã thụ thai. Sau đó bà Rebecca thỉnh ý Đức Chúa. Đức Chúa phán cùng bà: ‘Có hai dân tộc ở trong lòng ngươi, và hai dân tộc từ dạ ngươi sinh ra; dân này sẽ thống trị người kia, và đứa lớn sẽ làm tôi đứa bé.’ ”113 (3) Bạn nên hiểu Isaac đại diện cho ai, Rebecca đại diện cho ai, và liên quan đến người mà Đức Chúa đã cho thấy rằng dân tộc này vĩ đại hơn dân tộc kia. (4) Và trong một lời tiên tri khác, Giacóp nói rõ hơn với Giuse, con trai ông rằng: “Này đây, Đức Chúa đã không lấy đi sự hiện diện của con khỏi cha; hãy đem các con trai của con đến cho cha, để cha chúc phúc cho chúng.”114 (5) Ông Giuse đem Épraim và Mơnase, với ý định rằng Manase, vì là anh, nên được chúc phúc, nên ông Giuse đã dẫn Mơnase đến bên tay hữu của Giacóp cha mình. Nhưng trong Thần Khí ông Giacóp đã nhìn thấy một biểu tượng của dân sẽ đến. Và ông nói gì? “Và Giacóp bắt chéo tay, đặt tay phải lên đầu Épraim, đứa con thứ và nhỏ tuổi hơn, và chúc phúc cho nó. Ông Giuse nói với ông Giacóp rằng, “Xin cha hãy đặt tay hữu mình lên đầu Mơnase, vì thằng này là con trai đầu lòng của con.” Và ông Giacóp đã nói với ông Giuse rằng: “Cha biết, con ơi, Cha biết mà; nhưng đứa lớn sẽ làm tôi đứa bé. Tuy nhiên, đứa lớn cũng sẽ được chúc phúc.”115 (6) Hãy quan sát xem Ngài đã ấn định rằng dân tộc này phải là dân đầu tiên, và là người thừa kế giao ước như thế nào.

(7) Bây giờ, nếu thêm vào điểm tương tự cũng được thực hiện qua Ápraham, thì chúng ta sẽ thêm một chi tiết cuối vào kiến thức của mình. Vậy, Đức Chúa nói gì với Ápraham, khi chỉ một mình ông tin và được kể là người công chính? “Này đây, Ta đặt ngươi, Áp-ra-ham, làm cha của các dân tộc tin vào Chúa mà không cần chịu phép cắt bì.”116

Ghi Chú

X. St 25,21-23: Ông I-xa-ác khẩn cầu ĐỨC CHÚA cho vợ ông, vì bà hiếm hoi. ĐỨC CHÚA nhậm lời ông, và bà Rê-bê-ca vợ ông có thai. Các đứa con đụng nhau trong lòng bà, nên bà kêu lên : "Nếu vậy thì tại sao tôi thế này ?" Bà thỉnh ý ĐỨC CHÚA. ĐỨC CHÚA phán với bà : "Có hai dân tộc trong lòng ngươi, hai dân từ dạ ngươi sinh ra và sẽ chia rẽ nhau. Dân này sẽ mạnh hơn dân kia, đứa lớn sẽ làm tôi đứa bé."
X. St 48,9.11: Ông Giu-se thưa cha : "Chúng là những con trai mà Thiên Chúa đã ban cho con ở đây." Ông Ít-ra-en nói tiếp : "Đem chúng đến cho cha, để cha chúc phúc cho chúng." Ông Ít-ra-en nói với ông Giu-se : "Cha không nghĩ rằng lại nhìn thấy mặt con, thế mà Thiên Chúa lại cho cha nhìn thấy cả dòng dõi con nữa !"
X. St 48,14.18.19: Ông Ít-ra-en đưa tay phải ra, đặt lên đầu Ép-ra-im là em, và đặt tay trái lên đầu Mơ-na-se ; ông bắt tréo tay, vì Mơ-na-se là con cả. Ông Giu-se nói với cha : "Thưa cha, xin đừng làm thế, vì thằng này mới là con đầu lòng, xin cha đặt tay phải lên đầu nó." Nhưng cha ông từ chối và nói : "Cha biết, con ơi, cha biết : nó cũng sẽ trở thành một dân, và nó cũng sẽ lớn. Nhưng em nó sẽ lớn hơn nó và dòng dõi của em nó sẽ thành rất nhiều dân tộc."
X. St 15,6: Ông tin ĐỨC CHÚA, và vì thế, ĐỨC CHÚA kể ông là người công chính; St 17,5: Người ta sẽ không còn gọi tên ngươi là Áp-ram nữa, nhưng là Áp-ra-ham, vì Ta đặt ngươi làm cha của vô số dân tộc; Rm 4,11.17: Ông nhận được phép cắt bì như dấu hiệu chứng thực rằng : nhờ tin mà ông được trở nên công chính, trước khi được cắt bì. Như vậy, ông là cha của mọi kẻ tin mà không được cắt bì, và vì tin nên được kể là công chính. Như có lời chép : Ta đã đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ông là tổ phụ chúng ta trước mặt Thiên Chúa, Đấng ông tin tưởng, Đấng làm cho kẻ chết được sống và khiến những gì không có hoá có.
ĐOẠN 14

(1) Đúng vậy. Nhưng chúng ta hãy xem liệu Người có thực sự ban giao ước Người đã thề với các tổ phụ mà Người sẽ ban cho dân tộc ấy hay không.117 Người đã thực sự ban cho dân ấy; nhưng họ không xứng đáng lãnh nhận nó vì tội lỗi của họ. (2) Vì vị tiên tri tuyên sấm: “Và ông Môsê đã ăn chay trên núi Sinai bốn mươi ngày bốn mươi đêm, để nhận giao ước của Đức Chúa với dân. Và ông Môsê đã nhận từ Chúa hai bia đá do chính tay của Chúa viết trong thần khí.”118 Và khi Môsê nhận được chúng, ông bắt đầu mang chúng xuống để trao cho dân. (3) Và Chúa phán với Môsê: “Hỡi Môsê, hãy xuống mau đi, vì dân của ngươi, dân mà ngươi đã dẫn ra khỏi xanAi Cập, đã phá vỡ Lề Luật”. Và Môsê nhận ra rằng một lần nữa họ đã đúc các hình tượng cho chính mình, và ông ném các tấm bia từ tay mình, và các tấm bia giao ước của Đức Chúa bị vỡ tan.119 (4) Vậy, Môsê đã lãnh nhận giao ước, nhưng họ lại không xứng đáng.

Nhưng chúng ta đã lãnh nhận giao ước như thế nào? Hãy học cho biết! Môsê đã lãnh nhận giao ước như một người tôi tớ, nhưng chính Chúa đã ban nó cho chúng ta, để chúng ta trở thành dân tộc thừa kế, bởi chịu đau khổ vì chúng ta. (5) Và Người đã được tỏ mình ra để họ có thể lấp đầy tội lỗi của họ và chúng ta có thể nhận được giao ước qua Chúa Giêsu, là Đấng đã thừa hưởng giao ước đó, và cũng là Đấng đã chuẩn bị cho mục đích này, để có thể đích thân xuất hiện và cứu thoát lòng dạ chúng ta khỏi bóng tối, vốn đã được trả giá bằng cái chết và được trao nộp cho sự vô pháp của lỗi lầm, Ngài có thể thiết lập với một giao ước bằng lời của mình. (6) Vì có lời chép rằng Chúa Cha đã truyền cho Ngài cứu chúng ta khỏi bóng tối và chuẩn bị một dân thánh cho chính Ngài. (7) Vì thế, vị tiên tri nói: “Ta là Đức Chúa  Thiên Chúa của ngươi, đã gọi ngươi trong đức công bình, và Ta sẽ nắm lấy tay ngươi và thêm sức cho ngươi; và Ta đã đặt ngươi làm giao ước với dân, làm ánh sáng cho các dân tộc, để mở mắt cho những ai mù lòa, và giải thoát những người bị trói khỏi xiềng xích của họ và đưa khỏi ngục những kẻ ngồi trong bóng tối.”120 Do đó, chúng ta hiểu những gì chúng tôi đã được cứu chuộc. (8) Một lần nữa, vị tiên tri nói: “Này đây, Ta đặt ngươi làm ánh sáng cho muôn dân nước, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất; Đức Chúa là Thiên Chúa, Đấng cứu độ ngươi đã phán”121 (9) Một lần nữa, vị tiên tri nói: “Thần Khí của Đức Chúa ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi báo tin mừng về ân sủng cho kẻ khiêm nhường,122 Ngài đã sai tôi đến để chữa lành những tấm lòng tan nát, công bố tự do cho các tù nhân, và trả lại ánh sáng cho người mù lòa, công bố năm hồng ân của Chúa và một ngày báo phục, để an ủi mọi kẻ than khóc.”123

Ghi Chú

117 Các bản S, L còn thêm “Chúng ta hãy tìm hiểu xem” (Let us inquire). 
118 X. Xh 24,18: Ông Mô-sê vào giữa đám mây và đi lên núi. Ông Mô-sê ở trên núi bốn mươi ngày bốn mươi đêm; Xh 31,18: Sau khi phán với ông Mô-sê trên núi Xi-nai, ĐỨC CHÚA ban cho ông hai tấm bia Chứng Ước, hai tấm bia đá do chính tay Thiên Chúa viết.
119 X. Xh 32,7-8: ĐỨC CHÚA phán với ông Mô-sê : "Hãy đi xuống, vì dân ngươi đã hư hỏng rồi, dân mà ngươi đã đưa lên từ đất Ai-cập. Chúng đã vội đi ra ngoài con đường Ta truyền cho chúng đi. Chúng đã đúc một con bê, rồi sụp xuống lạy nó, tế nó và nói : "Hỡi Ít-ra-en, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai-cập."; Xh 32,19: Vậy khi đến gần trại, ông thấy con bê và những bọn người đang nhảy múa. Ông Mô-sê nổi cơn thịnh nộ : Ông ném các tấm bia đang cầm trong tay và đập vỡ dưới chân núi.
120 X. Is 42,6-7: Người phán thế này : "Ta là ĐỨC CHÚA, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước,để mở mắt cho những ai mù loà, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm."
121 X. Is 49,6-7: Người phán : "Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta để tái lập các chi tộc Gia-cóp, để dẫn đưa các người Ít-ra-en sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít. Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất." Với người bị thiên hạ khinh chê, bị dân mình kinh tởm, với người làm tôi mọi cho bạo chúa, ĐỨC CHÚA là Đấng Cứu Chuộc và là Đức Thánh của Ít-ra-en,Người phán thế này : Vua chúa sẽ thấy và đứng lên, chư hầu sẽ thấy và bái lạy vì uy quyền của ĐỨC CHÚA là Đấng trung thành, là Đức Thánh của Ít-ra-en, Đấng đã tuyển chọn ngươi.
122 “kẻ khiêm nhường” (the humble): bản G cũng có chi tiết này, bản S đọc là “kẻ nghèo hèn” (the poor); bản L đọc là “mọi người” (to men); bản C thiếu mất một vài từ ở đây. Harmer phục hồi bản văn đọc là “kẻ khiêm nhường”
123 X. Is 61,1-2: Thần khí của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì ĐỨC CHÚA đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của ĐỨC CHÚA, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta ; Người sai tôi đi yên ủi mọi kẻ khóc than.
ĐOẠN 15

(1) Hơn nữa, liên quan đến ngày Sabát, nó cũng được viết, trong “Mười Lời” mà Thiên Chúa đã nói với ông Môsê diện đối diện trên núi Sinai: “Và hãy thánh hóa ngày Sabát của Đức Chúa, với tay sạch lòng thanh.”124 (2) Và ở một nơi khác, Người phán: “Nếu con cái ngươi tuân giữ ngày Sabát, thì Ta sẽ dủ lòng thương xót của Ta cho chúng.”125 (3) Người nói về ngày Sabát vào lúc khởi đầu công trình tạo dựng: “Thiên Chúa đã hoàn thành công việc do tay Ngài làm trong sáu ngày, khi làm xong xong vào ngày thứ bảy, Ngài nghỉ ngơi vào ngày đó và thánh hóa ngày đó”.126 (4) Hỡi các con hãy quan sát xem “Người đã hoàn thành trong sáu ngày” nghĩa là gì. Nó có nghĩa là thế này: trong sáu ngàn năm nữa Chúa sẽ kết thúc mọi thứ, vì với Người một ngày tựa thể ngàn năm. Và chính Người đã làm chứng cho tôi khi Người phán rằng, “Này đây, ngày của Chúa sẽ như thể ngàn năm.”127 Vì vậy, các con, trong sáu ngày - tức là trong sáu nghìn năm nữa - mọi thứ sẽ kết thúc. (5) “Và Người nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy.” Điều này có nghĩa là: khi Con của Ngài đến, Người sẽ hủy diệt thời đại của kẻ vô pháp128 và sẽ phán xét kẻ vô tín, cũng sẽ thay đổi mặt trời, mặt trăng và các vì sao, và sau đó Nguời sẽ thực sự nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy. (6) Hơn nữa, Người phán: “Ngươi sẽ thánh hóa ngày Sabát với tay sạch lòng thanh.” Vì vậy, nếu bây giờ, bất cứ ai, với lòng thanh, có thể thánh hóa ngày mà Thiên Chúa đã thánh hóa, thì chúng ta đã bị lừa dối về mọi mặt. (7) Nhưng nếu điều đó không xảy ra,129 thì chúng ta sẽ chỉ thực sự nghỉ ngơi và thánh hóa ngày thứ bảy khi chính chúng ta có thể làm như vậy, sau khi được công chính và nhận được lời hứa; khi tình trạng vô pháp vô thiên không còn nữa, và mọi sự đã được Chúa làm cho mới mẻ, để rồi chúng ta sẽ có thể thánh hóa ngày Sabát, vì chưng chính chúng ta trước hết sẽ được thánh hóa. (8) Cuối cùng, Người phán với họ: “Ta không thể chịu đựng nổi ngày đầu tháng và ngày sabát của các ngươi.”130 Các con hiểu ý của Ngài là: không phải những ngày sabát hiện tại được Ta chấp nhận, mà là ngày Ta đã làm ra; vào ngày Sabát đó, sau khi Ta đã sắp xếp mọi thứ yên ổn, Ta sẽ tạo ra sự khởi đầu của ngày thứ tám, là ngày bắt đầu của một thế giới khác. (9) Đây là lý do tại sao chúng ta dành ngày thứ tám để cử hành, ngày mà Chúa Giêsu vừa sống lại từ cõi chết, sau đó hiện ra nữa, được đem lên trời.

Ghi Chú

124 X. Xh 20,8: Ngươi hãy nhớ ngày sa-bát, mà coi đó là ngày thánh;
Dnl 5,12: Ngươi hãy giữ ngày sa-bát, mà coi đó là ngày thánh, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, đã truyền cho ngươi;
Tv 24,4: Đó là kẻ tay sạch lòng thanh, chẳng mê theo ngẫu tượng, không thề gian thề dối.

125 X. Xh 31,13-17: "Phần ngươi, hãy nói với con cái Ít-ra-en : cách riêng, các ngươi sẽ giữ các ngày sa-bát của Ta, bởi vì đó là một dấu hiệu giữa Ta và con cái các ngươi qua mọi thế hệ, để người ta biết rằng chính Ta là ĐỨC CHÚA, Đấng thánh hiến các ngươi. Các ngươi sẽ giữ ngày sa-bát, vì đó là ngày thánh đối với các ngươi. Kẻ nào vi phạm điều ấy, thì sẽ bị xử tử ; phải, kẻ nào làm việc trong ngày ấy, sẽ bị khai trừ khỏi dân nó. Trong sáu ngày, người ta sẽ làm việc, nhưng ngày thứ bảy là một ngày sa-bát, một ngày nghỉ hoàn toàn, dâng ĐỨC CHÚA : kẻ nào làm việc trong ngày sa-bát sẽ bị xử tử. Con cái Ít-ra-en sẽ giữ ngày sa-bát, nghĩa là nghỉ ngơi trong ngày đó, qua mọi thế hệ : đó là một giao ước vĩnh viễn. Đó là một dấu hiệu vĩnh viễn giữa Ta và con cái Ít-ra-en ; vì trong sáu ngày ĐỨC CHÚA đã dựng nên trời đất, nhưng ngày thứ bảy Người đã ngưng các việc và nghỉ xả hơi.";
Gr 17,24: Nếu các ngươi thực sự nghe theo lời Ta - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA - là không gồng gánh qua các cửa thành này trong ngày sa-bát, đồng thời nếu các ngươi thánh hiến ngày sa-bát là không làm công việc nào trong ngày đó;
Is 56,2: Phúc thay người làm như thế, phúc thay phàm nhân nắm giữ điều này, người giữ ngày sa-bát mà không vi phạm, chẳng hề đưa tay làm điều gian ác.

126 X. St 2,2-3: Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn thành công việc Người làm. Khi làm xong mọi công việc của Người, ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi. Thiên Chúa ban phúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã nghỉ, ngưng làm mọi công việc sáng tạo của Người.
127 X. 2 Pr 3,8: Anh em thân mến, một điều duy nhất, xin anh em đừng quên : đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày.
128 “Kẻ vô pháp” (the lawless one) có lẽ là “sự vô pháp” (lawlessness).
129 “Nhưng nếu điều đó không xảy ra”: ở đây bản văn bị hư hỏng nặng. Bản dịch ở trên cố gắng diễn đạt theo ý nghĩa của S. Lightfoot, theo các bản ScL, đọc là “Nhưng nếu sau tất cả và không đến lúc đó.…” Nhiều người chấp nhận văn bản của Funk-Bihlmeyer: “Hãy quan sát điều đó, khi nó xuất hiện.…”. Để biết thêm chi tiết, xem Kraft, Barnabas và Didache, tr.129.
130 X. Is 1,13: Thôi, đừng đem những lễ vật vô ích đến nữa. Ta ghê tởm khói hương ; Ta không chịu nổi ngày đầu tháng, ngày sa-bát, ngày đại hội, không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạt linh đình.
ĐOẠN 16

(1) Cuối cùng, cha cũng sẽ nói với các con về đền thờ, và những người khốn khổ đi sai đường lạc hướng và đặt niềm hy vọng của họ vào đền thờ như thế nào, như thể đó là nhà của Thiên Chúa, chứ không đặt niềm hy vọng Thiên Chúa của họ, Đấng đã dựng nên họ. (2) Vì họ, hầu như giống với dân ngoại, đã thánh hiến mình bằng phương tiện của đền thờ. Nhưng Đức Chúa nói gì khi phá hủy nó? Hãy học cho biết! “Ai lấy gang tay đo tầng trời, hay lấy lòng bàn tay đo cõi đất? Chúa nói há chẳng phải Ta sao? Trời là ngai Ta, đất là bệ dưới chân ta. Các ngươi sẽ xây cho Ta nhà như nào, hay nơi nào là chốn để Ta nghỉ ngơi? ”131 Bây giờ các con biết là hy vọng của họ thật vô ích. (3) Hơn nữa, một lần nữa Người phán: “Kìa, những kẻ phá hủy đền thờ này sẽ tự xây dựng nó”132 (4) Điều này đang xảy ra ngay bây giờ. Bởi vì họ đã tham chiến, nó đã bị kẻ thù của họ phá hủy, và bây giờ chính các tôi tớ của các kẻ thù họ sẽ xây dựng lại nó. (5) Một lần nữa, điều được mạc khải là thành phố, đền thờ và dân Israel đã được tiền định bị trao nộp. Vì Kinh Thánh nói: “Và điều sẽ xảy ra trong những ngày sau hết là Đức Chúa sẽ trao đàn chiên trên đồng cỏ, chuồng chiên  và tháp canh của chúng cho sự hủy diệt.”133 Và điều ấy đã xảy ra đúng như lời Đức Chúa phán.

(6) Nhưng chúng ta hãy tìm hiểu xem trong thực tế có một đền thờ của Thiên Chúa hay không. Thưa là có — nơi đó chính Người nói rằng Người đang xây dựng và hoàn thiện nó! Vì có lời chép rằng: “Và nó sẽ qua đi khi tuần lễ kết thúc, đền thờ của Thiên Chúa sẽ được xây dựng cách vinh hiển nhân danh Đức Chúa.”134 (7) Do đó, cha phát hiện ra rằng có một đền thờ trên thực tế. Vậy nó sẽ được xây dựng nhân danh Chúa như thế nào? Hãy học cho biết! Trước khi chúng ta tin Thiên Chúa, nơi cư ngụ của cõi lòng chúng ta thì hư nát và yếu đuối, một đền thờ thật sự là do bàn tay con người xây dựng, bởi vì nó đầy rẫy ngẫu tượng và là nơi trú ngụ của ma quỷ, vì chúng ta đã làm bất cứ điều gì trái nghịch với Thiên Chúa. (8) “Nhưng nó sẽ được xây dựng nhân danh Đức Chúa.” Vì vậy, hãy chú ý, để đền thờ cuả Đức Chúa có thể được xây dựng một cách vinh quang. Bằng cách nào? Hãy học cho biết! Bằng cách đón nhận sự tha thứ của tội lỗi và đặt niềm hy vọng vào Thánh Danh, chúng ta đã trở nên thụ tạo mới, được tái tạo từ đầu. Do đó, Đức Chúa thực sự ở trong nơi cư ngụ của chúng ta - tức là trong chúng ta.135 (9) Bằng cách nào? Lời trung tín của Người, lời hứa mời gọi của Người, sự khôn ngoan của các sắc lệnh công bình của Người, các mệnh lệnh dạy dỗ của Ngài, chính Ngài đã nói tiên tri trong chúng ta, chính Ngài ở trong chúng ta; khai mở cho chúng ta là những người đã từng bị trói buộc với tử thần cánh cửa của đền thờ, đó là lối vào, và ban chúng ta ơn hối cải, Người dẫn chúng ta vào đền thờ bất diệt. (10) Vì kẻ khao khát được giải thoát thì chẳng phải nhìn vào người rao giảng136 [sứ điệp cứu độ cho kẻ ấy], mà là Đấng ngự và nói trong người ấy, và ngạc nhiên vì kẻ ấy chưa từng nghe những lời như thế từ môi miệng của những người phát ngôn cũng như về phần mình chưa từng khao khát lắng nghe họ. Đây là đền thờ thiêng liêng đang được xây dựng cho Đức Chúa.

Ghi Chú

131 X. Is 40,12: Ai dùng lòng bàn tay đong nước biển, lấy gang tay đo chín tầng trời, dùng cái thưng mà lường xem bụi đất, lấy cân bàn cân móc mà cân thử núi đồi ?;
Is 66,1: ĐỨC CHÚA phán thế này : "Trời là ngai của Ta, và đất là bệ dưới chân Ta. Các ngươi sẽ xây cho Ta nhà nào, và nơi nào sẽ là chốn Ta nghỉ ngơi ?”

132 Không biết nguồn tài liệu;
x. Is 49,17: Những người tái thiết ngươi thì vội vàng chạy tới, còn kẻ huỷ diệt tàn phá ngươi thì đành phải tháo lui.

133 Không biết nguồn tài liệu
134 Không biết nguồn tài liệu;
x. Dn 9,24: Bảy mươi tuần đã được ấn định cho dân và thành thánh của ngươi, để chấm dứt gian tà, xoá sạch tội ác, đền xong lỗi lầm, để đem lại sự công chính vĩnh cửu, để thị kiến và lời ngôn sứ được ứng nghiệm, và để xức dầu Nơi Cực Thánh.

135 “Đức Chúa thực sự ở trong nơi cư ngụ của chúng ta - tức là trong chúng ta” có nghĩa đen là “trong nơi cư ngụ của chúng ta Thiên Chúa thực sự ở trong chúng ta” .
136 “người rao giảng”: tức là người rao giảng sứ điệp cứu độ
ĐOẠN 17

(1) Trong mức độ có thể giải thích rõ ràng những điều này cho các con, cha hy vọng, theo lòng ước muốn của mình, rằng cha đã không bỏ sót bất cứ điều gì trong những vấn đề liên quan đến ơn cứu độ.137 (2) Vì nếu cha viết thư cho các con về những điều hiện tại hoặc những điều sắp xảy đến, các con sẽ không bao giờ hiểu được, bởi chúng được kể trong các dụ ngôn. Vì vậy, những điều này có rất nhiều.138

Ghi Chú

137 “cha hy vọng, theo lòng ước muốn của mình, rằng cha đã không bỏ sót bất cứ điều gì trong những vấn đề liên quan đến ơn cứu độ.” (I hope, in accordance with my desire, that I have not omitted anything of the matters relating to salvation.): các bản (Sc) (G) cũng có chi tiết này; các bản SCL đọc là “cha hy vọng rằng cha không bỏ sót điều gì” (I hope that I have not omitted anything.)
138 Bản Latin kết thúc ở đây với câu này: Một lần nữa, các con có cái nhìn sâu sắc về sự uy nghiêm của Chúa Kitô, theo đó mọi sự xảy ra trong Ngài và qua Ngài, Đấng được tôn vinh, quyền năng và vinh quang, bây giờ và mãi mãi. Đến đây kết thúc Thư của Barnabas. (Again you have insight concerning the majesty of Christ, how all things take place in him and through him, to whom be honor and power and glory, now and forever. Here ends the Epistle of Barnabas.)
ĐOẠN 18

(1) Thế nhưng, chúng ta hãy chuyển sang bài học và giáo huấn khác. Có hai con đường của giáo huấn và uy quyền, một con đường của ánh sáng và một con đường của bóng tối, và có sự khác biệt lớn lao giữa hai con đường này. Vì một bên là các thiên thần của Thiên Chúa được trao ban ánh sáng đóng quân, còn bên kia là các thiên thần của Satan. (2) Và người trước là Đức Chúa từ muôn thuở đến muôn đời, còn kẻ sau là kẻ cai trị thời đại vô pháp vô thiên hiện nay.

ĐOẠN 19

(1) Đây là con đường ánh sáng; nếu kẻ nào muốn đạt tới đích đã nhắm, thì kẻ ấy phải siêng năng cố gắng dốc hết sức mình. Tri thức này mà chúng ta được dạy cho biết để chúng ta đi trên con đường như sau. (2) Ngươi hãy yêu mến Đấng đã làm ra ngươi; ngươi hãy kính sợ Đấng đã tạo thành ngươi; ngươi hãy tôn vinh Đấng đã cứu chuộc ngươi khỏi tử thần. Ngươi hãy có tâm hồn đơn sơ chân thành và đầy thần khí. Ngươi đừng cộng tác với những ai đi theo con đường dẫn tới sự chết; ngươi hãy chê ghét bất cứ thứ gì không đẹp lòng Chúa; ngươi cũng hãy chê ghét mọi thứ giả hình; ngươi chớ bỏ các mệnh lệnh Chúa truyền. (3) Ngươi chớ tự cao tự đại, những hãy khiêm nhường trong mọi sự. Ngươi chớ nhận lấy vinh quang cho mình. Ngươi chớ mưu hại ngươi thân cận mình. Ngươi chớ để tâm hồn mình mắc phải tính kiêu căng ngạo mạn.139 (4) Ngươi chớ làm sự dâm dục bừa bãi; “ngươi chớ ngoại tình”;140 ngươi chớ làm chuyện đồi bại với các thanh thiếu niên. Lời của Chúa sẽ không đến với ngươi giữa những kẻ ô uế. Ngươi không được thiên vị khi khiển trách ai đó về một lỗi phạm. Hãy là người khiêm tốn; hãy là người thinh lặng; hãy là người biết tôn trọng những lời ngươi đã nghe. Ngươi sẽ không mang ác cảm với anh em của mình. (5) Ngươi chớ dao động trước các quyết định của mình.141 “Ngươi không được dùng danh Đức Chúa một cách bất xứng.”142 Ngươi hãy yêu mến người thân cận hơn chính mình. Ngươi không được giết thai nhi, cũng không được giết trẻ sơ sinh. Ngươi chớ bỏ bê143 con trai cũng như con gái, nhưng từ khi chúng còn ấu thơ ngươi hãy dạy chúng biết kính sợ Chúa. (6) Ngươi chớ ham muốn của cải người thân cận; ngươi chớ trở nên hà tiện. Đừng kết thân với phường kiêu căng, nhưng hãy sống với người khiêm nhường và người công chính. Hãy đón nhận như một ơn lành mà bất cứ điều gì xảy đến cho ngươi, hãy biết rằng chẳng có chi thoát khỏi Thiên Chúa. (7) Đừng bất nhất, cũng đừng nói lời hai ý.144
Hãy phục tùng chủ nhân với lòng tôn trọng và kính sợ, như là một biểu tượng của Chúa. Ngươi không được ra lệnh cho nô lệ hay tớ gái của mình, những người đặt niềm hy vọng vào cùng một Chúa như ngươi, khi ngươi đang tức giận, kẻo họ không còn lòng kính sợ Chúa, Đấng ở trên cả ngươi, bởi Ngài đến để kêu gọi chẳng lưu tâm đến tiếng tăm mà là những người Thánh Thần đã chuẩn bị. (8) Ngươi hãy chia sẽ mọi thứ với người thân cận, và đừng bảo bất kỳ cái gì là của riêng. Vì nếu ngươi là những người cùng chia sẻ điều bất diệt, thì càng phải chia sẻ những của chóng hư biết bao nhiêu. Chớ có ăn nói nhanh nhảu, vì miệng lưỡi là cạm bẫy của tử thần. Ngươi hãy hết sức giữ mình trong sạch để mưu ích cho linh hồn mình. (9) Đừng trở nên kẻ thò tay ra để nhận, nhưng thụt tay lại khi phải cho. Ngươi hãy yêu mến như yêu quý con ngươi mắt mình người rao giảng lời Chúa cho ngươi. (10) Ngày đêm hãy nhớ đến ngày phán xét, ngày ngày ngươi hãy tìm kiếm gặp gỡ các thánh,145 cũng như cố gắng đem lời lẽ của mình khuyên bảo, và nổ lực cứu một linh hồn bằng lời lẽ của mình, đồng thời hãy lấy việc làm của chính đôi tay mìn mà chuộc tội lỗi mình. (11) Ngươi chớ ngại cho, cũng đừng lẩm bẩm càm ràm khi cho,146 ngươi sẽ biết Đấng thưởng công bội hậu cho ngươi là Đấng nào. Ngươi hãy gìn giữ điều ngươi đã lãnh nhận, cũng đừng thêm đừng bớt điều gì. Ngươi hãy chê ghét kẻ ác.147 Ngươi hãy xét xử cách công minh. (12) Ngươi đừng gây nên chia rẽ, nhưng hãy kiến tạo an bình giữa những kẻ đang tranh chấp với nhau. Ngươi hãy xưng thú tội mình. Ngươi đừng đến cầu nguyện với lòng gian ác. Đó là con đường của ánh sáng.

Ghi Chú

139 “Ngươi chớ để tâm hồn mình mắc phải tính kiêu căng ngạo mạn.” (You shall not permit your soul to become arrogant.): các bản SG cũng có chi tiết này; bản C đặt câu này sau câu: “Ngươi chớ tự cao tự đại, những hãy khiêm nhường trong mọi sự.”
140 X. Xh 20,14: Ngươi không được ngoại tình.
141 “Ngươi chớ dao động trước các quyết định của mình.”: có nghĩa không chắc chắn; nghĩa đen là “ở giữa hai suy nghĩ mặc dù nó có được hay không” (be of two minds whether it shall be or not).
142 “Ngươi không được dùng danh Đức Chúa một cách bất xứng.”: các bản SG cũng có chi tiết này; bản C đặt câu này sau câu: “hãy là người biết tôn trọng những lời ngươi đã nghe.”
x. Xh 20,7: Ngươi không được dùng danh ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng, vì ĐỨC CHÚA không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng.

143 “bỏ bê” (withhold your hand from): tức là “sao lãng trách nhiệm của mình” (neglect your responsibility to.)
144 “nói lời hai ý” (double-tongued): tức là dối trá, lật lộng; các bản SC cũng vậy; bản G thêm “vì lời hai ý là cái bẫy tử thần” (for the double-tongue is a deadly snare).
x. Didache 2.4: Ngươi chớ có hai ý trong tư tưởng cũng như trong lời nói, vì “lời hai ý” là một cạm bẫy nguy hại.

145 “gặp gỡ các thánh”: các bản ScG cũng có chi tiết này; các bản SC thiếu sót chi tiết này.
146 “việc cho”(giving): các bản SC cũng có chi tiết này; các bản ScG thêm “ai xin, hãy cho” (give to everyone who asks you).
x. Didache 1.5: Ai xin, hãy cho

147 “kẻ ác” (the evil one): có lẽ là “điều ác” “evil”
ĐOẠN 20

(1) Trái lại con đường bóng tối thì quanh co và hoàn toàn bị nguyền rủa. Vì đó là con đường dẫn đến cái chết muôn đời và hình phạt vĩnh viễn, trên con đường bóng tối ấy những điều dối trá đã hủy hoại tâm hồn con người: thờ ngẫu tượng, trơ tráo, đề cao quyền lực, giả hình, giả dối, ngoại tình, giết người, trộm cướp, kiêu ngạo, phạm tội, gian dối, hiểm độc, cứng đầu, ma thuật, yêu thuật, tham lam, thiếu lòng kính sợ Chúa. (2) Đó là con đường của những kẻ bắt bớ điều thiện,148 của những kẻ chê ghét sự thật, yêu thích sự dối trá, không biết phần thưởng của sự công chính, không tuân theo điều thiện hay sự phán xét công bình, bỏ qua người góa bụa và trẻ mồ côi, cảnh giác không phải vì kính sợ Đức Chúa Trời nhưng vì điều xấu xa, từ đó mà họ rời bỏ và xa cách hiền lành và nhẫn nại thì, yêu thích những điều vô giá trị, theo đuổi việc thưởng công đền ơn, chẳng biết thương xót kẻ nghèo, chẳng bên quyền lợi cho kẻ bị áp bức, khinh suất vu cáo, không biết đến Đấng đã tạo thành mình, [họ còn là] những kẻ sát nhân trẻ em, những kẻ phá hoại công trình sáng tạo của Thiên Chúa, quay lưng lại với người túng thiếu, áp bức những người đau khổ, bênh vực những người giàu có, xét xử người nghèo bất công, kỳ cùng tội lỗi.

Ghi Chú

148 “điều thiện” (the good): có lẽ là “người thiện” (good people).
ĐOẠN 21

(1) Do đó, sau khi học tất cả các mệnh lệnh Chúa truyền được viết ở đây, điều tốt đẹp là bước đi theo đó. Vì ai làm những điều này sẽ được vinh hiển trong Nước Chúa; còn ai chọn những điều trái ngược, thì sẽ bị hủy diệt cùng với những việc mình làm. Đây là lý do tại sao có sự sống lại, đây là lý do tại sao có sự thưởng phạt.

(2) Cha kêu gọi những ai có địa vị cao trọng, nếu các con chấp nhận một số lời khuyên đầy thành tâm thiện chí từ cha: ở giữa các con, các con có những người mà các con có thể làm điều thiện cho họ — đừng sợ thất bại. (3) Ngày ấy gần kề khi mọi thứ sẽ diệt vong cùng với kẻ ác. “ Đức Chúa, và phần thưởng của Ngài, đã gần kề.”149 (4) Cha xin nhắc lại một lần nữa: hãy là những người lập pháp tốt cho nhau; hãy tiếp tục là những người cố vấn trung thành của nhau; loại bỏ mọi thói giả hình với nhau. (5) Và cầu xin Chúa, Đấng cai trị toàn thể thế giới, ban cho các con sự khôn ngoan, sự sáng suốt, sự hiểu biết, sự am hiểu về các mệnh lệnh Ngài truyền, và lòng kiên nhẫn. (6) Hãy để Chúa hướng dẫn, hãy tìm kiếm điều Chúa mưu cầu nơi các con, và sau đó làm điều đó, để con có thể được tìm thấy150 [cứu độ] trong ngày phán xét. (7) Và nếu có bất kỳ điều tốt đẹp gì đáng nhớ, thì hãy nhớ đến cha khi các con suy gẫm về những điều này, để lòng ao ước và tinh thần cảnh giác của cha có thể dẫn đến một vài kết quả tốt đẹp nào đó; Cha xin các con điều này như một đặc ân. (8) Chừng nào các con vẫn còn ở trong “bình sành hảo hạng”151 [thân xác], thì đừng sợ thất bại trong bất kỳ những điều vừa nói, nhưng hãy liên tục tìm kiếm những điều ấy và thực hiện mọi mệnh lệnh, vì chúng xứng đáng được thi hành. (9) Vì lý do ấy, cha đã cố gắng hết sức viết thư cho các con, để cổ vũ các con. Thân ái chào các con, chúc các con bình an. Nguyện xin Thiên Chúa, Đấng đầy vinh quang và ân sủng, luôn ở cùng các con.

Ghi Chú

149 X. Is 40,10: Kìa ĐỨC CHÚA quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn chủ quyền. Bên cạnh Người, này công lao lập được, trước mặt Người, đây sự nghiệp làm nên.
x. Kh 22,12: Đây, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến, và Ta đem theo lương bổng để trả cho mỗi người tuỳ theo việc mình làm.

150 “được tìm thấy” (be found): bản S cũng có chi tiết này; G đọc là “được cứu độ” (be saved); bản C đọc là “tìm thấy” (find)
151 “bình sành hảo hạng” (good vessel): tức là “thân xác” (the body).
CÁC TÁC PHẨM THỜI KỲ GIÁO PHỤ
  • Đidakê
  • Mục Tử của Hermas

Liên Lạc Với Chúng Tôi

  • 8810 Diamond Lake Ln - Houston, TX 77083
  • 713-870-8955
  • nth@nguoitinhuu.org

Vể NGƯỜI TÍN HỮU

NguoiTinHuu.org được thành lập năm 1997 với mục đích loan truyền Tin Mừng qua hệ thống tin học và chuyển tải tài liệu. Sứ vụ này được thể hiện qua việc cung cấp MIỄN PHÍ cho tất cả mọi người các kiến thức về đức tin Công Giáo, kể cả tin tức và mọi vấn đề liên quan đến đời sống Công Giáo.
Chúng tôi nhất quyết trung thành với Huấn Quyền của Giáo Hội, Đức Thánh Cha và các Giám Mục trên toàn thế giới cùng với hợp nhất với người như các chủ chăn của Giáo Hội, trong khi vẫn cởi mở đối thoại với bất cứ ai.
NguoiTinHuu.org được duy trì bởi Pt. Giuse Trần Văn Nhật với sự cộng tác của các linh mục Việt Nam trên toàn thế giới, nhất là các linh mục và phó tế của tổng giáo phận Galveston-Houston.

How to Help Nguoi Tin Huu

Please pray daily for all the members and benefactors of NguoiTinHuu.org, past and present, living and deceased.

Về Bài Trích Trong www.nguoitinhuu.org

Có thể sử dụng các bài trong www.nguoitinhuu.org cho nhu cầu tinh thần, xin đừng làm thương mãi và xin ghi rõ xuất xứ cũng như tác giả.

Về Bài Gửi Cho www.nguoitinhuu.org

Bài gửi cho www.nguoitinhuu.org thì xin đừng gửi cho chỗ khác.
Khi tự ý gửi bài cho www.nguoitinhuu.org, tác giả đương nhiên cho phép phổ biến theo quy tắc của www.nguoitinhuu.org.
Chúng tôi có toàn quyền kiểm duyệt hay từ chối đăng tải mà không cần nêu lý do.
© 2019 NGUOI TIN HUU - All Rights Reserved.NGUOITINHUU