Ngày càng nhiều những bản phúc trình về hiện tượng “kinh nghiệm cận tử” (near death experiences) được phổ biến. Chúng ghi lại trải nghiệm của những người mà chuyên viên y khoa xác nhận là phổi đã ngừng thở, tim đã ngừng đập, nạn nhân đã chết thực sự. Nhưng sau một khoảng thời gian ngắn bỗng nhiên người đó sống lại. Trước sự kiện hoang mang này chúng ta nên nhìn lại giáo lý “xác chết sống lại” của Công Giáo.
Với tư duy của những người được giáo dục trong nền khoa học thực dụng ngày nay, ít nhất có hai câu hỏi được nêu ra. 1. Nếu xác chết đã bị phân hủy thành bùn, làm sao nó có thể sống lại? 2. Có cần thiết để xác chết phải sống lại không?
Niềm tin về xác chết sẽ sống lại đã có từ rất lâu trong truyền thống văn hóa và tôn giáo của người Do Thái. Sách Daniel ghi, “Những kẻ an nghỉ trong bụi đất sẽ trỗi dậy. Người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục muôn đời” (Dn 12:2). Dân Do Thái tin rằng khi chết tất cả mọi linh hồn đều đến một nơi gọi là Sheol (tiếng Hy lạp là Hades) để tạm trú một thời gian. Đó là một địa điểm tối tăm trong lòng đất (Tv 63:10; Is 14:15; Gv 9:2-3; St 37:35; Ds 16:30). Sheol có hai địa phận, một nơi dành cho người lành, một nơi dành cho kẻ dữ. Dụ ngôn Lazarus cho biết cả Lazarus hiền lương và ông phú hộ ích kỷ đều ở trong Sheol, nhưng họ ở hai nơi cách nhau bởi một vực sâu (Lc 16:19-25). Trong khỏang 3 thể kỷ đầu, Công Giáo đã giải thích việc xác chết sống lại trong ảnh hưởng của niềm tin này.
Nhưng cái “tôi” đích thực là ai, xác hay hồn? Cho đến thế kỷ III, người ta vẫn nghĩ rằng cái tôi là linh hồn. Triết học Hy Lạp - có ảnh hưởng rất mạnh vào thời đó - quan niệm rằng thể xác là ngục tù của linh hồn. Chỉ khi nào thể xác chết đi, linh hồn mới được giải thoát. Cùng thời đó, Ngộ Giáo (Gnostics) phổ biến tư tưởng cho thể xác là thứ ô uế. Khi chết thể xác sẽ bị tan rã và bị hủy bỏ, linh hồn vẫn như cũ không hề hấn gì. Nhóm Sađốc trong Do Thái giáo cũng không tin việc xác sống lại, chỉ linh hồn mới tồn tại. Để chống lại những khuynh hướng loại bỏ thể xác, các thánh Tông Đồ, qua kinh Tin Kính, nhấn mạnh đến yếu tố thể xác, với tuyên xưng “carnis resurrectionem” nghĩa là “xác thịt sống lại”.
Thực sự đúng với giáo lý Công Giáo, toàn bộ con người cả hồn lẫn xác cùng có sự sống ở đời sau. Công Đồng Nicêa-Constantinopolis (381), đã điều chỉnh lại mệnh đề “xác chết sống lại” thành "Resurrectionem mortuorum“ nghĩa là “kẻ chết sống lại” với ý cả hồn lẫn xác cùng có trong ngày sau hết. Tín điều này đã được tái khảng định qua các Công Đồng Lateran IV (1215), Công Đồng Lyon II (1274), Công Đồng Florence (1439) và Công Đồng Lyon II (1274).
Ý thức về bản thể con người, phải rút ra từ lời dạy của Thiên Chúa. Thiên Chúa phán, “Con hãy yêu Thiên Chúa hết mình, hết linh hồn, hết trí khôn”. Lời dạy đã xác định cái tôi hữu thể gồm xác, hồn, và tinh thần. Danh xưng theo Tân Ước là: soma (body - xác), psyche (soul – hồn), và pneuma (spirit - thần trí). Đức Giêsu đã có lần cảnh cáo dân chúng, “Đừng sợ những kẻ giết được xác, hãy sợ Đấng có thể giết được cả xác lẫn hồn.” Đức Giêsu đã không tách rời xác và hồn thành hai đời sống cá biệt. Xác và hồn đều có cùng nhau trên thiên đàng hay dưới hỏa ngục. Như vậy cái tôi đúng nghĩa của Công giáo là một hiện hữu nhất thể xác-hồn và ý thức (tinh thần).
Đàng khác, nếu phân chia sự sống của con người thành ra 2 thế giới riêng biệt tâm linh và vật chất, nó sẽ mâu thuẫn với cuộc tạo dựng của Thiên Chúa. Phúc Âm ghi nhận rằng Thiên Chúa tạo dựng mọi sự— tâm linh và vật chất—một cách hài hòa, không phân chia chúng thành hai thế giới mâu thuẫn nhau. “Trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời và dưới đất, hữu hình và vô hình [...] Tất cả đều tồn tại trong Người." (Cl 1:16-17). Chúng ta cũng thấy, Thiên Chúa là Đấng thần linh đã đi vào thế giới vật chất để cứu độ con người. Nếu vật chất là xấu xa hoặc đối lập với tinh thần, Thiên Chúa đã không nhập thể trong thế gian. "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì không phải chết, nhưng được sống muôn đời."(Ga 3:16)
Suy ra, ơn cứu độ chỉ có nghĩa khi toàn thể con người được phục sinh. Nếu Thiên Chúa chỉ cứu được hồn hay xác, thì cái phần được cứu ấy không phải là con người tôi trọn vẹn. Vả lại Thiên Chúa là Thiên Chúa của sự sống, nơi Thiên Chúa không có sự chết, do đó xác chết phải được sống lại.
Ai cũng biết có rất nhiều trường hợp người chết không còn xác. Chẳng hạn xác bị tan nát vì bom đạn, xác bị thiêu ra tro, xác đã bị thoái hóa thành bụi sau cả ngàn năm v.v ... làm sao những xác vô hình tượng đó có thể sống trở lại. Ngay cả khi xác chết có thể sống lại nó cũng mang nhiều nghi vấn. Nó có phải là xác chết cũ sống lại để nhập với hồn, như niềm tin của Do Thái giáo? Hay là hồn tái sinh trong một thân xác khác, như niềm tin về luân hồi? Nếu là những trường hợp như vậy sự phục sinh chỉ là sự kéo dài thêm tuổi thọ nơi trần thế mà thôi.
Thêm một vấn đề nữa, nếu xác có thể sống lại để nhập với hồn theo đức tin của Công Giáo, nhưng xác là vật chất làm sao nó có thể vào cõi tâm linh là nơi phi vật chất.
Tất cả mọi nền văn hoá và mọi tôn giáo trên trái đất này đều khảng định rằng xác chết không thể sống lại, bởi vì họ không thể vượt qua được sự chết. Nhưng Kitô giáo nói rằng “có”, bởi vì thân xác Đức Giêsu đã sống lại. Đức Giêsu là nguyên nhân của sự sống lại nơi con người. Chính Đức Giêsu đã giáo huấn về “kẻ chết sống lại” (Mc 12:18-27; Mt 22:31; Ga 6:40). Đồng thời Người cho biết chính Mình sẽ chết và sẽ phục sinh (Mc 8:31-33; 9:30-32; 10:32-34). Thánh Phaolô lập luận rằng nếu kẻ chết không thể sống lại, tại sao Đức Giêsu đã sống lại. Nếu Đức Giêsu đã sống lại thì những ai an nghỉ trong Người cũng sẽ sống lại (1Cr 15:12-42; Rm 1:4; CV 23:6 ; 24:21; 26:23). Đó là nền tảng đức tin về ơn cứu độ. “Nếu chúng ta chỉ hy vọng vào Đức Kitô trong cuộc đời này thôi thì chúng ta là những kẻ vô phúc nhất trong thiên hạ” (1 Cr 15:12-20). Công Giáo, qua thánh Phaolô, dứt khoát xác tín với thế giới: “Nếu Đức Giêsu không sống lại thì lời giảng của chúng tôi vô giá trị” (1Co 15:12-20). Chúng ta phải hiểu như thế mới khoát ly khỏi những ý tưởng mập mờ về sự sống lại.
Cũng vậy, tất cả mọi nền văn hoá và mọi tôn giáo trên trái đất này đều khảng định rằng xác chết là vật chất không thể vào cõi tâm linh phi vật chất. Thiên Chúa giáo nói rằng “có” bởi vì Thân xác phục sinh của Đức Giêsu là lời giải đáp. Xác sống lại của Đức Giêsu là thể xác đã tiến hóa để đồng dạng với phẩm tính siêu việt của Người (Pl 3:20-21). Xác mới có đặc tính bất tử, sáng láng, đẹp đẽ, và siêu việt như đi xuyên qua cánh cửa khóa kín (1Cr 15:41- 44). Xác phục sinh của con người cũng vậy họ sẽ không mang thân xác như hiện tại mà sẽ có thân xác vinh hiển, “thân thể có thần khí”, không còn bị giới hạn bởi vật chất thô thiển (1Cr 15:44). Để giúp tín hữu dễ hiểu, thánh Phaolô ví thân xác cũ như cái lều cũ hay chiếc áo cũ rách. Phục sinh là hồn sống trong căn nhà mới hay được mặc chiếc áo mới (2Cr 5:1-2). (1)
Theo thần học, thân xác của con người chia sẻ với linh hồn mọi giây phút của sự sống nên thân xác cũng có cùng mục đích như hồn. Theo nhà thần học Pierre Teihard de Chardin “Chúa Giêsu hiến dâng sự cứu rỗi không phải chỉ cho linh hồn, nhưng cho cả cấu trúc thể chất là điều kiện của linh hồn” (2). Xác Đức Giêsu sống lại chứng tỏ Thiên Chúa yêu quí tác phẩm sáng tạo của Người, đồng thời mặc khải cho chúng ta biết xác-hồn là một nhất thể bất khả phân ly. Vượt cõi chết để phục sinh là chủ điểm cứu độ của Đức Giêsu. Như vậy cái tôi đúng nghĩa đối với Kitô giáo là một hiện hữu nhất thể xác-hồn. Xin nhắc lại, xác phục sinh không phải là sống lại “giống như cũ”, cũng không phải là hồn tái sinh vào một thân xác mới, mà là một cuộc biến đổi mới (metamorphosis) để con người được kết hợp hoàn toàn với Thiên Chúa. (3)
Trên thực tế, qua nền khoa học vật lý hiện đại, người ta đã đối mặt với những thực thể khó phân biệt giữa vật chất và phi vật chất. Chẳng hạn ánh sáng, bản chất của nó vừa là hạt (vật chất) vừa là sóng (siêu vật chất). Trong thế giới quantum có những hạt rất linh động như hạt gluon và proton. Chúng vừa là vật chất vừa là phi vật chất. Là vật chất vì chúng có thể truyền năng lượng, tác động lên các hạt khác (ví dụ: hiệu ứng quang điện). Là phi vật chất vì chúng không có khối lượng nghỉ, không tồn tại như một hạt vật chất thông thường mà chỉ tồn tại khi đang chuyển động với vận tốc ánh sáng (Wikipedia). Nếu năng lượng có thể biến đổi thành vật chất và ngược lại, thì không có gì ngăn cản Thiên Chúa có thể nâng vật chất lên một trạng thái khác trong thế giới tâm linh.
Nhận xét trên không có ý để giải nghĩa về bản thể của xác sống lại. Nó chỉ là một hình ảnh gợi ý về một lối nhìn mở rộng, hướng ra ngoài thế giới vật chất cứng đọng. Như thánh Tôma Aquinô nhận xét, vật chất trong thế giới này không phải là thực tại duy nhất. Có những hình thức hiện hữu cao hơn mà trí tuệ con người chưa thể hiểu thấu.
Khi nào xác chết sống lại? Đó là vào thời cánh chung (tận thế), lúc tất cả mọi người đều đến trước tòa phán xét. Biến cố này là một huyền nhiệm, không ai có thể biết nó sẽ xảy ra như thế nào. Trong viễn ảnh này, có vẻ như những nhà cánh chung học dễ cảm nhận sự việc rõ hơn suy nghĩ của chúng ta.
Từ thế kỷ XX, thần học đưa ra một cái nhìn rộng hơn về sự phục sinh. Thần học không chỉ tập trung vào “thân xác vật lý” mà còn nhấn mạnh vào sự toàn vẹn của con người trong tương quan với Thiên Chúa. Thần học gia Joseph Ratzinger, tức Giáo Hoàng Benedict XVI, cho rằng sự phục sinh không chỉ là việc tái tạo lại xác thịt theo kiểu vật lý mà là một biến đổi để con người sống trong thực tại thần linh (4). Tôi xin tóm tắt quan điểm của ông qua hai chủ đề sau:
* Bàn Về Khái Niệm Thời Gian Của Vũ Trụ (vật chất).
Theo Ratzinger, xác của con người là một thành tố trong toàn khối xác vũ trụ. Vì vũ trụ, hay vật chất, được Thiên Chúa tạo dựng trong thời gian, nên nó phải biến đổi không ngừng theo dòng thời gian. Đến thời điểm cuối cùng của dòng thời gian, vũ trụ sẽ đi tới đâu? Nó sẽ tiến tới sự tan rã hay tiến tới một dạng kiện toàn trọn vẹn? Không có nền tri thức nào, kể cả khoa học, có thể trả lời được cho câu hỏi này. Duy chỉ có nguyên lý của Kitô giáo mới trả lời được, đó là chấp nhận cả hai kết quả nêu trên. Nghĩa là đến thời cuối cùng vũ trụ sẽ tan vỡ. Đồng thời nó sẽ trở nên trọn vẹn nhờ một uy lực đến từ bên ngoài là Đức Kitô. Đức Kitô là điểm khởi đầu của mọi tạo vật và sẽ làm cho vũ trụ trở nên trọn vẹn (1Cr 15,28).
* Bàn Về Khái Niệm Kẻ Chết Sống Lại
Khi chết hồn vẫn còn liên hệ với người sống. Suy ra hồn vẫn còn ở trong vũ trụ. Như vậy hồn, tự bản chất, vẫn được xếp vào thế giới vật chất dù nó không thuộc vật chất. Thời gian không ngừng vận chuyển để dẫn tới sự hợp nhất giữa hồn (siêu vật lý) và xác (vật lý). Đó là lúc, theo Phúc Âm, “Thiên Chúa đã hoàn thành mọi thứ trong mọi sự.” (1Cr 15,28). Những đặc ngữ như “ngày sau hết”, “tận thế”, “xác thịt sống lại” là những dấu chỉ về sự kết thúc của tiến trình nói trên.
(Góm ý thêm. Như vậy quan niệm "thế giới tâm linh là thế giới hoàn toàn phi vật chất" có thể chưa chính xác lắm. Phúc Âm cũng diễn tả thiên đàng có vẻ như không phải là một "thế giới phi vật chất tuyệt đối", mà là một trạng thái hiện hữu mới) (5).
Tuy nhiên chúng ta không thể nghĩ ra được bất cứ một chi tiết nào về thế giới sống lại. Chúng ta cũng không thể hiểu được được thật rõ ràng về bản chất “thể xác sống lại” của con người là thế nào (Ga 6:35-36).
* Bàn Về Khái Niệm Thân Thể Chúa Kitô
Chính Chúa Kitô là mối tương quan giữa Nước Trời của Thiên Chúa với lịch sử nhân loại. Khi phục sinh Chúa Kitô không vào Thiên Đàng nhưng trước hết đi vào địa ngục. Bởi vì Trời chẳng phải là Trời khi nó ngự trị trên một trần gian là địa ngục. Trời chỉ thật sự là Trời khi Trời ngự trên một thế giới mới.
Vì vậy lịch sử nhân loại chỉ kết thúc khi mọi người và mọi thụ tạo đều liên kết với nhau. Mỗi người vừa là mình vừa hiện diện trong người khác. Đó là giáo huấn về “thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô”, nghĩa là tất cả mọi người là một thân thể.
Vì vậy khi một cá nhân qua đời, vận mệnh trần thế của người đó chấm dứt, nhưng người đó chưa nhận được vị trí của mình trong cấu trúc toàn thể. Họ phải đợi cho đến khi lịch sử đi hết lộ trình của nó, lúc toàn thể vũ trụ đứng trước phiên tòa phán xét chung. Bấy giờ cá nhân mới được đưa vào trong toàn thể và nhận được một vị trí xứng hợp trong một toàn thể.
(ghi chú thêm. Điều ngạc nhiên là nhận định của thần học gia Ratzinger lại trùng hợp với nhận định của nhà vật lý học John Polkinghorne. Polkinghorne viết, thân xác Đức Giêsu cấu tạo bởi những hạt bụi vũ trụ. Khi xác Chúa phục sinh, Ngài đã khiến không những nhân loại mà còn cả vũ trụ cũng được ơn phục sinh (6). )
Công Giáo tin rằng cái chết không phải là một định mệnh vô nghĩa áp đặt từ bên ngoài. Thiên Chúa muốn con người sống vinh hiển với Người, nên thân xác của con người cũng được trở về với Thiên Chúa. Xác Đức Giêsu phục sinh chứng tỏ Thiên Chúa yêu quí tác phẩm sáng tạo của Người. Người không bỏ rơi bất cứ gì mà Người yêu quí.
Tuy nhiên thân xác phục sinh không phải là thân xác vật lý hiện tại, mà là một thân xác vinh hiển, có bản chất cao hơn vật chất thông thường. Gương mẫu của xác sống lại là thân xác phục sinh của Chúa Giêsu, một thân xác vừa có thể tương tác với thế giới vật chất, vừa vượt qua giới hạn vật lý.
Nói cách khác thế giới tâm linh có thể không hoàn toàn phi vật chất, nhưng là một dạng tồn tại cao hơn vật chất mà chúng ta chưa thể hiểu hết. Sự thay đổi từ "Tôi tin xác sẽ sống lại" thành "Tôi tin kẻ chết sẽ sống lại" là một sự điều chỉnh giúp diễn đạt chính xác hơn về niềm tin Công Giáo. Đồng thời thần học cho biết sự phục sinh của cá nhân cần phải đặt vào sự phục sinh của toàn thể con người trong vinh quang Thiên Chúa.
Ghi chú