Công Giáo đã có một giải nghĩa rất rõ về quỉ và nguồn gốc của chúng. Giáo lý cũng cho biết quỉ được phép hành động trong thế gian. Ở đây chúng ta không bàn đến hiện tượng quỉ qua hình ảnh những hữu thể dữ tợn cầm chĩa 3 nhánh. Chúng có thể nhập vào một con người để khống chế nạn nhân làm những việc quái đản. Để đối phó với chúng, mỗi giáo phận trên khắp thế giới đều đã có ban “trừ quỉ”. Ban này hành sự theo giáo luật với một nghi thức huấn quyền được xác định rõ ràng để trừ quỉ.
Ở đây chúng ta bàn đến những ảnh hưởng vô hình và im lặng của quỉ trong tâm trí con người. Đó là những cám dỗ rất tinh vi. Nạn nhân bị chúng dẫn dắt nhưng không hề có ý thức gì về chúng. Khác với trường hợp quỉ nhập, chúng ta không có một nghi thức nào để trừ quỉ. Sở dĩ chúng ta nhận diện ra chúng là nhờ những nhận thức của thần học và kinh nghiệm của một số các thánh. Những nguồn tri thức này đã dóng lên lời cảnh báo và cho chúng ta biết cách chiến đấu với quỉ.
Yếu tố xã hội
Mỗi cá nhân luôn luôn là một con người xã hội. Nhận thức của ta (một con người) bao giờ cũng là sản phẩm văn hóa của xã hội đó.
Xã hội đương thời, được gọi là Thời Đại Mới (New Way), trọng thực dụng và phi đạo đức (không đặt ra vấn đề đạo đức). Nâng đỡ xã hội này là nền văn học lãng mạn siêu nhiên (paranormal romance) hoặc kỳ ảo đen tối (dark fantasy). Trong đó những nhân vật quỷ được phim ảnh và tiểu thuyết lãng mạn hóa. Những hành vi độc ác của chúng được phù phép để được chiêm ngưỡng là những hành động anh hùng. (1)
Yếu tố tư tưởng
Sau thế chiến thứ II, cả thế giới bị hoang tàn, niềm tin vào Thiên Chúa bị khủng hoảng. Trong bối cảnh đó những hệ thống tư tưởng phủ nhận Thiên Chúa ra đời.
Một số triết gia như Soren Kierkegaard (1813–1855), Jean Paul Sartre (1905–1980) và Albert Camus (1913–1960) đưa ra chủ nghĩa Hiện Sinh (Existentialism). Họ cho rằng con người bị “ném” vào trong một thế giới vô trật tự và vô nghĩa. Vắng bóng Thiên Chúa, con người hành động theo ý của mình. Sartre tuyên bố “Hiện hữu có trước bản chất” (Existence precedes essence) nghĩa là sự hiện hữu của con người không do định nghĩa bởi Thượng Đế.
Tiếp theo đó, vào cuối thế kỷ 19, triết gia Đức Friedrich Nietzsche (1844–1900) đưa ra thuyết Hư Vô (Nihilism). Thuyết này cho rằng không có nền tảng khách quan nào xác định cho giá trị đạo đức hay chân lý. Câu nói nổi tiếng của Nietzche “Thượng Đế đã chết” (tiếng Đức: Gott ist tot), ý nói niềm tin của con người vào Thượng Đế đã mất. Con người phải tự định nghĩa cho sự hiện hữu của chính mình (Wikipedia).
Đánh xập giá trị luân lý phổ quát, triết gia Max Stirner (1806–1856) và Ayn Rand (1905–1982) đưa ra chủ nghĩa Cá nhân Cực đoan (Egoism / Radical Individualism). Họ quan niệm “cái tôi” là trung tâm duy nhất của đạo đức, của lý trí và là ý nghĩa của sự sống. Họ phản đối lối sống đoàn thể của tôn giáo. Con người phải tự tạo ra một hệ thống giá trị mới vượt trên luật lệ của tôn giáo và định kiến xã hội.
Yếu tố bản tính người
Bản tính con người là thiện hay ác? Theo Công Giáo con người có cả hai bản tính này. Triết gia Công Giáo Immanuel Kant cho biết đạo đức là chân lý thiên tiên, tự nhiên mà có trong tâm trí con người không cần biện luận. Tội lỗi nhập vào tâm trí con người vì dư căn của tội tổ tông. “Tội tổ tông” là cách nói cụ thể hóa căn tính hướng đến tội lỗi của con người. Vì vậy trong nội tâm con người tuy có ý thức về luật Chúa, nhưng thể xác lại có một lề luật khác đối nghịch với luật trong nội tâm (Rm 7:21-23). Giáo lý Công Giáo cũng khảng định, “Nếu nói chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình và sự thật không ở trong chúng ta (1Ga 1,8-9). Bởi vì tinh thần thì hăng hái hướng thiện, nhưng thể xác lại yếu đuối (Mt 26:41).
Thánh Phao-lô kể ra rất minh bạch “Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm dục, ô uế, phóng đãng, thờ cúng, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen ghét, nóng giận, độc ác, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, chè chén, thóa mạ, ăn nói thô tục” (1 Cr 5:9-11; Gl 5,19-21; Cl 3:5-8).
Đến đây chúng ta có thể vẽ ra cảnh trí của thời hiện đại. Về mặt tư tưởng, đó là nơi không có nền đạo đức khách quan. Con người tự đặt ra luật đạo đức, không cần tôn giáo hướng dẫn. Ý niệm về Thiên Chúa bị loại bỏ. Đề cao tự do cá nhân “tôi sống cho tôi” vì vậy “tự do”, “vị kỷ” là luật đạo đức tối thượng.
Về mặt xã hội, thời hiện đại là môi trường nghiện ngập video game bạo lực. Bình thường hóa phá thai, tôn thờ Satan. Luân lý xã hội chú trọng vào sự đề cao cái tôi, vào sự nổi tiếng và chiếm hữu vật chất...Tất cả những đặc tính này đã dẫn dắt con người đến một quan niệm tiêu cực về giá trị đạo đức và mục đích của sự sống.
Những “hiện tượng” xã hội nêu trên là những cây củi khô đã có sẵn, quỉ chỉ cần châm ngọn lửa vào là chúng cháy bùng lên. Quỉ châm lửa bằng cách nào? Theo môn Quỷ học (Demonology) có hai điều quan trọng chúng ta cần phải biết rõ trước khi bàn luận xa hơn.
Điều thứ I: Satan (quỉ) không thể đọc được suy nghĩ của con người. Quỉ chỉ là tạo vật, chúng không có phẩm tính toàn năng. Chính con người tự đưa mình vào cảm bẫy của chúng. Xin dẫn chứng một số “suy nghĩ” có sẵn trong trí óc con người.
Thói mê tín: Tìm hướng sống qua bói toán, bùa ngãi, gọi hồn. Tham gia những hoạt động đồng bóng, ma thuật.
Thực hành những kỹ thuật huyền bí: Tin vào sức mạnh thần bí như mở luân xa, thiền siêu niệm.
Gia nhập ngụy giáo: Chẳng hạn gia nhập giáo phái tôn thờ Satan, hay một ngẫu tượng nào đó.
Nô lệ cho ảo giác thần bí: Chẳng hạn nghiện các lọai ma túy, nghiện nghe những loại nhạc và đọc những sách kích thích tình dục, ca tụng tội ác và ngay cả sự tự sát.
Tôn sùng những tiên tri giả. Theo những “minh sư” đưa ra những giáo lý mới và làm được những dấu lạ. Thánh Mathêu đã cảnh báo, “chúng có thể lừa gạt được cả những người đã được tuyển chọn” (Mt 24,23-25).
Điều thứ II: Satan (quỉ) không thể cài đặt những suy nghĩ xấu vào trí não của con người. Con người có tự do trong hành động theo ý mình. Do đó khi làm điều xấu con người phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Việc quỉ có thể làm là khuếch đại các yếu tố tiêu cực sẵn có trong bản chất con người để dẫn đến hành động sai trái. Xin đưa ra một vài dẫn chứng tiêu biểu.
Tính ích kỷ và Lòng tham: Đặt lợi ích cá nhân lên trên hết. Khao khát tài sản, quyền lực. Sẵn sàng làm hại người khác để đạt được mục đích. Chai đá trước nỗi đau khổ của người khác.
Tính Kiêu ngạo: Không chịu nhận lỗi. Coi thường người khác. Phủ nhận sự cần thiết của ơn sủng.
Óc nghi ngờ: không chịu tin vào những chân lý hoặc giáo huấn cơ bản của tôn giáo. Sống xa lìa đời sống tâm linh. Cho nguyên lý đạo đức của tôn giáo là lỗi thời.
Óc đố kỵ: Không bao giờ thấy đủ với những gì mình đang có mà chỉ để ý đến người khác để so đo. Tự mình tạo ra sự cay đắng và lòng thù hận trong tâm hồn của mình.
Tê liệt tinh thần: Không muốn làm việc từ thiện. Không thích tôn giáo. Con người lơ là đời sống tâm linh và đạo đức cho đến khi nó hoàn toàn biến mất.
Tóm lại, một đặc tính của thời đại mà Satan thích nhất là họ không tin có Satan. Do đó quỉ có thể quyến dụ con người mà không cần lộ diện. Con người tự sa đọa và tự để mình làm nô lệ cho xác thịt và cho sự gian tà (Rm 6: 12-18).
Theo Thánh Kinh, Satan đề nghị nếu Đức Giêsu thờ lạy nó, nó sẽ ban cho tất cả mọi vương quốc với mọi vinh quang trên thế gian (Mt 4:8-9). Điều này chứng tỏ quỷ sở hữu mọi vinh quang vật chất của thế gian. Nó dùng vật chất như phần thưởng ban cho những ai thờ lạy nó. Do đó, chủ nghĩa vật chất được xem là sản phẩm của Sa-tan.
Giáo lý Công giáo xác định ba hình thức dục vọng sai lệch. "Dục vọng của mắt" (concupiscentia oculorum) nói về sự thèm muốn những thứ hào nhoáng trần tục. “Dục vọng của xác thịt” (concupiscentia carnis), nói về dâm dục, mê ăn uống, nghiện ngập, hoặc ham muốn sự thoải mái và tiện nghi quá mức. “Dục vọng kiêu ngạo” (superbia vitae) nói về tính tự phụ kiêu căng, thèm khát danh vọng quyền lực.(2) Giáo lý Công giáo đi đến kết luận: ham muốn quá độ về vật chất được coi là sự tôn thờ ngẫu tượng, vì vật chất được tôn vinh trên Thiên Chúa (GL 2113).
Ảnh hưởng của quỷ là dụ dỗ con người khuất phục trước những cám dỗ nêu trên. Từ đó họ tự điều chỉnh ý chí của họ để theo những giá trị trần tục và tách mình khỏi ân sủng. Họ trở thành nô lệ cho tội lỗi, tức là nô lệ cho Satan. Liên kết với quỷ tức là xa lánh Thiên Chúa, bởi vì không ai có thể phục vụ hai chủ (Mt 6:24).(3) Xa lánh Thiên Chúa hiến mình làm nô lệ cho tội lỗi sẽ dẫn đến sự chết (Rm 6:16)
Trong cuốn sách nổi tiếng "The Devil You Don't Know” (Ác quỉ mà bạn không biết), cha Louis Cameli gọi quỷ là một kẻ tạo bệnh dịch cho tâm hồn.(4) Cha nêu ra bốn thủ đoạn lặng lẽ, khó bị nhận diện của quỉ:
1. Sự Lừa Dối (Deception). Quỉ không nhất thiết nói dối trắng trợn nhưng bóp méo sự thật. chẳng hạn chúng dùng cách đổi tên (wordsmithing) cho hành vi tội lỗi, như gọi phá thai là "quyền tự do lựa chọn". Chúng làm mất đi bản chất thật của sự việc.
2. Sự Chia Rẽ (Division). Gây mâu thuẫn trong tư tưởng khiến con người mất sự bình an và đâm ra hoang mang với niềm tin của mình. Gây mâu thuẫn bên ngoài bằng cách khuếch đại những cảm xúc tiêu cực như giận dữ, oán hận, sợ hãi, kiêu ngạo, tham lam.
3. Sự Đánh Lạc Hướng (Diversion). Chuyển sự chú ý của con người vào bản thân với những thú vui, những hoạt động phù phiếm hoặc những lo lắng vụn vặt. Còn những điều thực sự quan trọng và mục đích sống cao cả lại bị bỏ quên.
4. Sự Nản Lòng (Discouragement). Để làm suy yếu ý chí và hy vọng của con người, quỷ dùng những thất bại của cá nhân, sự mệt mỏi về thể chất và tinh thần để khiến con người cảm thấy không còn lối thoát. Nó biến sự hối lỗi lành mạnh thành sự tự trách móc và tuyệt vọng.
Thánh Gioan Kim Khẩu (349–407), trong ba bài giảng về quỷ, thánh cho biết quỷ không thể ép buộc một người phạm tội. Nó chỉ thành công qua sự lừa dối cảm giác. Chúng dùng vật chất làm mồi nhử cho sự lừa dối này. "Giống như những kẻ xấu đi biển, chúng dùng một dụng cụ nhỏ để đục thủng đáy tàu. Nước biển sẽ tràn vào tàu từ bên dưới. Cũng vậy, khi quỷ nhìn thấy linh hồn đầy những điều tốt đẹp, nó đến đục thủng bằng một dụng cụ sắt nhỏ, đó là lòng dục vọng. Rồi người ta rơi vào bẫy của nó tranh giành với đồng loại về những thứ trần tục.(5)
Thánh Basiliô Cả (330–379) cho lòng tham lam là bệnh tâm linh. “Nó không bao giờ ổn định và có bản chất hủy diệt của lửa. Khi ngọn lửa bùng lên bởi gió, nó sẽ lao vào nuốt chửng tất cả gỗ mà nó có thể tìm thấy. Không ai có thể ngăn cản được nó cho đến khi hết gỗ. Cũng vậy rất khó kiềm chế được lòng tham lam.” Linh hồn kẻ tham lam sẽ trở thành nô lê, bị giam cầm trong sự lo lắng bảo vệ của cải. Thánh Basiliô còn cho rằng tích trữ của cải là một hình thức cướp đoạt: "Bánh mì mà bạn không dùng là bánh mì của người đói; quần áo treo trong tủ mà bạn không dùng là quần áo của người trần truồng; tiền mà bạn cất giữ là tiền của người nghèo." Bằng cách đó người giàu trở thành nô lệ cho thói tham lam. (Bài Giảng về Giàu Có và Lòng Tham - Homilies on Wealth and Avarice).
Thánh Tôma Aquinô (1225–1274), trong Tổng Luận Thần Học (Summa Theologiae), Phần I-II (Prima Secundae Partis), thánh cho biết quỷ không thể trực tiếp ép buộc ý chí (will) của ta, vì ý chí là phẩm chất cao quí của linh hồn. Quỉ chỉ là nguyên nhân bên ngoài (external cause) thông qua việc cám dỗ sự nhận thức của giác quan. Chẳng hạn chúng đưa ra những đối tượng mà mình ham muốn để khuê gợi cảm giác và trí tưởng tượng của mình. Chúng có thể tác động đến sinh khí (vital spirits) để gây cảm giác hoặc trình bày các hình ảnh sai lệch lên trí tưởng tượng của ta.
Tóm lại khi ý chí đồng ý với lòng ham muốn, con người sẽ ngả theo sự cám dỗ của quỷ. Rồi ý chí sẽ khiến bản thân lệ thuộc (nô lệ) vào những ham muốn đó. Chỉ khi nào ý chí chúng ta đồng thuận thì quỷ mới có quyền lực chi phối chúng ta. Vì vậy khi tự do hành động sai trái, chúng ta phải chịu trách nhiệm về hậu quả tội lỗi của mình.
Thánh Gioan Thập Giá cho biết, Thiên Chúa hiện diện trong tâm hồn của mỗi người, ngay cả ở nơi những kẻ tội lỗi xấu xa nhất. Sự hiệp nhất này cho chúng ta khả năng phục hồi đạo đức. Chỉ khi nào sự hiệp nhất này thất bại, người đó mới bị hủy diệt.(6)
Theo thánh Padre Pio, điều cốt yếu là luôn luôn tỉnh thức về mặt tâm linh để chống lại quỉ. Bởi vì quỷ không ngủ yên mà tìm muôn vàn cách rất tinh vi để hủy hoại chúng ta. Thánh Padre Pio gọi đó là cuộc chiến tâm linh (spiritual warfare).(7) Lời dạy này phản ánh đoạn Kinh Thánh "Anh em hãy tỉnh thức và khôn ngoan, vì quỷ, kẻ thù của anh em, như sư tử rống, đi rảo quanh tìm mồi nuốt." (1 Pr 5:8).
Một cách cụ thể, cha Piô cho biết kinh Mân Côi là vũ khí, bí tích hòa giải là pháo đài ngăn ngừa quỉ. Người nói, "Hãy cầu nguyện, hy vọng và đừng lo lắng. Lo lắng là vô ích. Chúa nhân từ và sẽ lắng nghe lời cầu nguyện của bạn." Song song với lời cầu nguyện, cha Piô khuyên giáo dân nên thường xuyên tham dự các bí tích, chúng là những lá chắn chống lại quỷ.
Thánh Anthony cả (Anthony the Great), với một lối nhìn tích cực người cho rằng mỗi khi thấy mình bị cám dỗ, bị cay dắng, bị sợ hãi, bị giận dỗi... là lúc chúng ta được ban ơn. Chính xác là được ban ơn. Đó là một vinh dự. Vì cuộc chiến bắt đầu từ nội tâm chúng ta, trong việc vượt qua mọi thử thách trong tâm hồn, thể xác, trí óc... chúng ta sẽ chiến thắng chính mình. Hãy phó thác tất cả vào tay Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn và mọi thứ chúng ta có.(8)
Thánh Anthony cả, hơn ai hết, có thể tuyên bố như thế vì chính người đã chiến đấu với chính mình và đã chiến thắng. Chúng ta có thể lấy lời than thở của người để kết luận. Khi thánh đã chiến đấu với đủ loại cám dỗ đến mức kiệt sức, ông ngã sấp mặt xuống đất. Vào khoảnh khắc đó, Đấng Cứu Thế đứng trước mặt ông. Mọi bóng tối được soi sáng bởi sự hiện diện của Người. Thánh Anthony kêu lên, "Lạy Chúa! Ngài ở đâu khi con đang trong cuộc chiến khủng khiếp như vậy? Sao Chúa không giúp con?" Đấng Cứu Thế trả lời, "Ta đứng vô hình bên cạnh con, sẵn sàng giúp con, nhưng chỉ khi nào đức tin của con bị dao động.”
Những lời này của Đấng Cứu Thế cũng hướng đến mỗi người chúng ta. Khi chúng ta bị khủng hoảng với cuộc đấu tranh nội tâm, với bóng tối, với cái ác, với nỗi sợ hãi, với sự hoang mang, với tất cả những gì tạo nên bản chất sa ngã của con người, chúng ta hãy cầu nguyện. Bởi vì “ở đâu tràn ngập tội lỗi, ở đó càng tràn ngập ơn sủng” (Rm 5:20). Không những thế, “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi cho những ai yêu mến Người” (Rm 8,28), kể cả tội lỗi. Xã hội hiện đại ca tụng “giá trị của bạn là chính bạn” Đức Giêsu dạy, bạn có giá trị vì bạn là con Thiên Chúa.
