Trước kia lễ nầy được gọi là lễ thánh tẩy cho Đức Trinh nữ Maria, và chú trọng đến việc Đức Maria theo luật Môsê là phải qua phép thánh tẩy sau lúc sinh con. Nhưng ngày nay, chúng ta mừng lễ nầy là lễ dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ. Chủ điểm của lễ nầy là Chúa Giêsu. Lễ nầy cũng như một lễ Hiển Linh khác. Lễ Hiển Linh mừng Chúa Kitô hiện diện cho các nhà chiêm tinh và các dân ngoại. Hôm nay Chúa Giêsu được dâng vào Đền Thờ, Người hiện diện cho dân Người.
Ngôn sứ Malaki tiên báo một cách rõ ràng lúc “Thần sứ” của Thiên Chúa sẽ đến Đền Thờ. Vì Thần sứ sẽ đến một cách “thình lình”, và sứ vụ của Người rất khủng khiếp. Người sẽ đến “như lửa của thợ luyện kim, như thuốc tẩy của người thợ giặt”. Người sẽ ngồi để luyện kim, tẩy bạc. Vì sao lại có một Đấng đến một cách khủng khiếp như thế? Bởi vì, trong lúc dân chúng bận rộn xây dựng lại đất đai và Đền thờ đổ nát sau khi từ nơi lưu đầy trở về, đời sống thiêng liêng của họ bị xao lãng. Việc thờ phượng của họ rất nghèo nàn. Các thầy cả thì lười biếng một cách tệ hại. (Ml 1: 12-13; 2:8) Dân mà Thiên Chúa đã chọn hiện có đời sống thiêng liêng trong tình trạng phá sản. Thảo nào, ngôn sứ Malaki (nghĩa là “người đưa tin”) loan báo một tin khủng khiếp về việc Thần sứ Thiên Chúa sẽ đến. Đấng ấy sẽ đem đến sự thanh lọc và đổi mới đời sống thiêng liêng “Rồi lễ vật của Giuda và của Giêrusalem sẽ làm vui lòng Đức Chúa như những ngày xưa kia, như những năm thuở trước” (Ml 3:4)
Malaki đến loan tin quá cứng cỏi nên ông ta không được đón nhận niềm nở (Ml 3: 12-14). Dù vậy, ông ta vẫn kiên trì loan báo Lời Chúa như các ngôn sứ tiền nhiệm đã làm. Tin quá cứng cỏi nầy là điều cần thiết, nếu dân chúng được tỉnh thức khỏi sự thờ ơ, lãnh đạm đối với đường lối của Thiên Chúa. Cũng như trong đêm khuya, một làn gió nhẹ của mùa hè không thể đánh thức những người đang ngủ say mê, nhưng phải có cơn sấm sét mới đánh thức họ nỗi. Ngôn sứ Malaki trông thấy dân chúng thờ ơ về đời sống thiêng liêng, nên cần phải đưa đến một tin cứng cỏi, rền vang như pháo nổ và sấm sét để đánh thức họ tỉnh dậy.
Malaki là sách cuối cùng của Cựu Ước. Thật không đáng chấm dứt với những lời nhẹ nhàng, hùng biện trong Kinh Thánh đưa đến cho dân Do thái. Lúc còn niên thiếu, nhiều đêm tôi ngủ say tới sáng, mẹ tôi phải vào phòng đánh thức tôi. Bà lay chân tôi và lớn tiếng gọi tên tôi để đánh thức tôi dậy đi học. Tôi giật mình tỉnh thức một cách không như thường lệ bắt đầu một ngày mới, nhờ thế, tôi không bị đi học trễ. Lời của ngôn sứ Malaki là lời lớn tiếng cảnh cáo, đánh thức dân Israel ra khỏi đời sống thiêng liêng mê mẩn và mệt mỏi. Rốt cùng, lời nói cứng cỏi của ngôn sứ là một ân huệ chỉ bảo việc Thiên Chúa tiếp tục kêu gọi chúng ta trở về với lòng yêu thương hải hà của Người.
Malaki chuẩn bị cho dân chúng đón vị Thiên sứ thình lình đến Đền Thờ để bắt đầu việc “thanh luyện và đãi lọc”. Lời loan báo ấy đã làm cho chúng ta sẵn sàng mong đợi phải không? Lời loan báo ấy có thể làm cho chúng ta choáng váng về việc gì sẽ xẩy ra khi vị Thiên sứ đến. Chúng ta cùng với Malaki tự hỏi: “Ai chịu đựng nổi ngày Người đến…” (Ml 2:2)
Thánh Luca mô tả Thiên Chúa sai người đến Đền Thờ một cách bất ngờ. Thiên sứ sẽ là một hài nhi! Chính lúc chúng ta mong chờ Người đến để đập phá và đảo lộn mọi trật tự vì những lý do công chính làm muôn dân tan tác và sợ hãi. Thiên Chúa đã làm cho chúng ta bất ngờ. Đó có phải là tóm lược của toàn bộ Thánh Kinh hay không? Chúng ta mong đợi những điều chúng ta xứng đáng được nhận. Nhưng Thiên Chúa đã đến cứu vớt chúng ta bằng sự tha thứ và giúp dỡ bất ngờ.
Ai là người sẽ nhận biết sự hiện đến được mong đợi từ lâu? Đặc biệt Người đã đến mà không đúng với mô tả và mong đợi từ trước. Ngay cả các thầy cả, các người có quyền uy cũng không biết được. Chi trừ có 2 người lớn tuổi cầu nguyện thường xuyên, và tỉnh táo chờ mong. Vi cộng đòan phụng vụ chúng ta, những thanh, thiếu niên nhìn qua các bô lão, đây là dịp chúng ta theo tinh thần bà Anna và ông Simeon ca ngợi các bậc lão thành khôn ngoan và can đảm trong cộng đòan của chúng ta.
Các vị đó đã đi nhà thờ bao năm rồi? Đã bao lần họ dạy dỗ các trẻ em? Họ đã tình nguyện giúp phụng vụ trong xứ đạo, đã dọn thừc ăn cho những người đau khổ trong các đám tang, mới sáng thứ hai họ đã giúp đem tiền giáo dân cúng trong các lễ ngày chúa nhật, và họ đã rộng lượng dâng cúng trong các việc xây cất nhà thờ và gây quỹ từ thiện? Tôi có thể kể dài thêm nhiều trang nữa về việc các vị bô lão ấy đã làm. Tinh thần tiên đóan của bà Anna và ông Simeon vẫn còn tồn tại trong cộng đòan chúng ta, giúp chúng ta mở mắt và tai đón nhận những sự hiện diện ngạc nhiên của Thiên Chúa ở giữa chúng ta.
Ông Simeon và bà Anna là ai? Họ ở đâu đến, họ có được huấn luyện gì về thần học để làm việc quan trọng như thế không? Chúng ta không biết được. Chắc chắc họ không thuộc về thành phần của các vị lãnh đạo trong Đền Thờ. Họ là con cháu đầy đức tin của Israel, thay thế dân chúng Israel để ý lắng nhìn về Thiên Chúa. Họ không bỏ qua dịp nào để nhìn nhận hành động của Thiên Chúa. Họ được Thiên Chúa huấn luyện. Thánh Luca cho chúng ta biết ông Simeon được “Thánh Thần ngự trị”, và bà Anna “luôn luôn ở trong Đền Thờ, ăn chay, cầu nguyện và hôm sớm thờ phượng Thiên Chúa”. Cả hai là đại diện cho phần tử ưu tú của Israel. Cả hai có “bằng cao cấp” về cầu nguyện, canh thức và hy vọng. Cả hai giúp chúng ta nhận biết đường lối của Thiên Chúa là thông qua sự trung thành, cầu nguyện và tỉnh thức. Lòng đạo đức của họ đối với Thiên Chúa làm họ sẵn sàng đón nhận mặc khải của Thiên Chúa.
Ông Simeon tiên đóan chính xác là sẽ có nhiều người đi theo Chúa Kitô và cũng có nhiều người sẽ chống báng Người. Đây là câu chuyện của phần còn lại trong Phúc âm Thánh Luca. Theo đường lối của Chúa Giêsu hay từ bỏ Người là việc chúng ta phải lựa chọn. Từ bỏ Người Con của Đức Trinh Nữ Maria là như một lưỡi gươm đâm thâu qua trái tim của Mẹ Người.
Bà Anna là một gương mẫu về việc Thiên Chúa thương yêu, lo lắng cho những kẻ bé mọn nhất. Bà là một góa phụ, sinh sống nương tựa vào gia đình và những người khác. Bà sống trong một xã hội trọng nam giới, và bà đã lớn tuổi. Thánh Luca đã viết sơ lươc về hoàn cảnh thiếu thốn của bà và về sự khôn ngoan của bà. Bà quyết chí đặt tin tưởng vào Thiên Chúa và bà là nữ ngôn sứ đầu tiên loan báo tin cứu độ của Thiên Chúa. Bà “cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho tất cả những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem”.
Trong năm mà Giáo hội nhắc nhở vai trò của mỗi chúng ta là một người truyền giáo thì Bà Anna có thể trở thành “bổn mạng của các người truyền giáo ấy”. Bổn phận truyền giáo của chúng ta là gì? Bà Anna đã chỉ cho chúng ta là: chúng ta phải siêng năng cầu nguyện, hết lòng thờ phượng Thiên Chúa mặc dù gặp những khó khăn vẫn luôn luôn tin tưởng vào tình yêu thương của Người, và khi được dịp thì nói lời soi sáng cho kẻ khác như Bà ta đã làm.
Điều dạy dỗ chính yếu trong Thư của Thánh Phaolô gửi tín hữu Do thái là Chúa Kitô, một vị Thượng Tế. Lời dạy dỗ nầy đi đôi với tin mừng là Chúa Giêsu sẵn sàng hy sinh mạng sống của Người thay cho chúng ta. Chúng ta thấy rõ vì sao đọan thư nầy lại được chọn đọc trong ngày lễ hôm nay mừng Chúa Giêsu được cha mẹ Người dâng Người vào Đền Thờ. Chúa Giêsu không phải sinh ra trong chi tộc Thầy Cả Lêvi, nhưng Người vẫn được gọi là Thầy Cả. Thư của Thánh Phaolô dạy rằng Chúa Giêsu là của vật toàn hiến để đền tội cho chúng ta, và là vị Thầy Cả tự hiến mình làm của toàn hiến đó. Chúa Kitô, vị Thầy Cả của chúng ta đã cứu chúng ta bởi sự chết, sự sống lại, và sự vinh danh của Người. Chúa Kitô đã làm cho sự xóa tội được thực hiện và đã cho chúng ta được trở về với Thiên Chúa và hy vọng được đời sống muôn đời.
Trong thánh lễ nầy, Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Do thái nói vì sao Chúa Kitô đã nên người phàm. Với quan niệm của bức thư nầy, ma quỹ là lãnh chúa đã gây ra sự chết. Để cứu chúng ta khỏi lãnh chúa đó và để giải thóat những ai vì sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ. Chúa Kitô đã nên giống người phàm. Vì là người phàm, Chúa Kitô trở thành một vị “Thượng Tế nhân từ” và cũng là của lễ “để đền tội chúng sinh”. Hôm nay vị Thượng Tế của chúng ta đã vào Đền Thờ và có hai vị ngôn sứ lão thành xác nhận ra Người, loan báo tin Người đã đến và Người đã giữ lời hứa với chúng ta.