Hôm nay, Chúa Nhật IV Mùa Vọng, Giáo Hội lấy đoạn Phúc Âm Luca ngay sau biến cố Truyền Tin mà trong đó sứ thần Gabrien báo tin cho Trinh Nữ Maria biết rằng người sẽ thụ thai bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Trong khi Trinh Nữ Maria còn do dự nhận lời vì lý do là “không có quan hệ nào với người nam” (Lc 1:34) thì sứ thần cho biết rằng bà Êligiabét, người chị họ của Trinh Nữ Maria, dù tuổi đã già nhưng đang mang thai được sáu tháng, vì “đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được” (c. 37). Sau đó, Trinh Nữ Maria đến thăm bà Êligiabét như chúng ta nghe hôm nay và ở lại nhà bà này “khoảng ba tháng rồi trở về nhà” (c. 56).
Đoạn Phúc Âm hôm nay, thoạt nghe, chúng ta có cảm tưởng là Giáo Hội muốn đề cao Đức Maria với tinh thần hy sinh phục vụ, và thương người. Nhưng đây là câu chuyện nhiều lúng túng nếu chúng ta giải thích nó ngoài phạm vi văn hóa vùng Trung Đông thời bấy giờ.
Qua phần đầu của đoạn Phúc Âm hôm nay, chúng ta nghĩ rằng Đức Maria rất thương người chị họ nên ngay khi nghe tin bà này mang thai, Đức Maria đã “vội vã lên đường đến một thành thuộc chi tộc Giuđa trên miền núi” (c. 39) để thăm và phục vụ người chị họ của mình. Nhưng sau khi ở lại đó khoảng ba tháng thì Đức Maria lại trở về nhà trong khi bà Êligiabét tính ra thì đã gần đến ngày sinh – sau chín tháng mang thai! Lẽ ra Đức Maria phải ở lại để giúp bà Êligiabét sinh nở thì mới đúng là thương người. Thật bối rối! Như vậy chúng ta phải hiểu câu chuyện Thăm Viếng này như thế nào, và thánh sử Luca muốn nói gì qua câu chuyện này?
Dựa trên các sự kiện địa lý, xã hội của vùng Trung Đông thời xưa, các học giả Kinh Thánh (*) thấy rằng cuộc thăm viếng của Đức Maria đã được thánh sử Luca viết theo ý nghĩa thần học để độc giả thời bấy giờ hiểu được điều chính yếu mà ông muốn nói.
Khoảng cách giữa Nagiarét nơi Đức Maria sinh sống đến chỗ ở của bà Êligiabét khoảng tám cây số (Ein Karem), có nghĩa đi bộ khoảng bốn ngày đường. Ngày xưa không ai dám đi xa một mình, bởi vì sự hiểm trở của đồi núi cộng thêm sự nguy hiểm của cướp bóc nên hầu như người ta phải đi thành từng đoàn. Đó là chưa kể Đức Maria là một thiếu nữ, có lẽ khoảng mười bốn tuổi, thì không thể nào đơn độc đi xa như thế được. Tại sao thánh sử Luca lại diễn tả như Đức Maria vô cùng can đảm để thực hiện cuộc hành trình này một mình?
Nếu chúng ta nghĩ rằng thánh sử muốn đề cao Trinh Nữ Maria là một người gan dạ, điều đó thật sai lầm, bởi vì, trong xã hội Trung Đông thời xưa, mọi sinh hoạt đều tập trung vào sự vinh dự và sỉ nhục, nếu Trinh Nữ Maria tự ý đưa mình vào hoàn cảnh nguy hiểm để có thể bị sỉ nhục thì đó là điều xấu hổ vì người ta có thể nghĩ xấu về thai nhi ở trong lòng.
Một điểm đặc biệt khác được thánh sử Luca diễn tả là hài nhi trong lòng bà Êligiabét “nhảy mừng” khi gặp Đức Maria. Sự kiện thai nhi cử động trong dạ thì hầu như bất cứ bà mẹ nào cũng đều cảm nhận được khi mang thai, không có gì lạ. Nhưng thánh sử Luca dùng chữ “nhảy mừng” để người nghe chú ý đến bào thai trong lòng Đức Maria – đó là một con người mà sứ thần Gabrien cho biết là Đấng Thánh.
Người thời xưa rất tin vào sức mạnh của thần thánh qua một số đồ vật, tỉ như, người ta dùng các đồ vật hay mặc quần áo mầu xanh dương, hoặc đeo các bùa chú trong người, vì họ tin rằng các thứ đó có thể giúp họ xua trừ được ma quỷ, tránh được những tai họa, không bị các thần dữ xâm nhập. Vì thế, khi nghe câu chuyện Thăm Viếng, người thời xưa nhận ra rằng Đức Maria dám đơn độc du hành là vì đang mang trong người một Đấng Thánh, là Thai Nhi Giêsu, Người sẽ bảo vệ Đức Maria khỏi mọi sự dữ!
Không những thế, thánh sử Luca còn muốn nói với độc giả thời xưa rằng Thai Nhi Giêsu là Thiên Chúa, bởi vì, sau lời chào hỏi khi gặp gỡ, bà Êligiabét nói, “Bởi đâu tôi được thân mẫu của Chúa tôi đến với tôi thế này?” Một cách gián tiếp, qua miệng bà Êligiabét, thánh sử muốn tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Chúa, Người đến thế gian để cứu chuộc loài người. Và cũng qua lời của bà Êligiabét nói với Đức Maria, “Em được chúc phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”, thánh sử muốn cổ vũ độc giả hãy tin vào sự cứu chuộc của Thiên Chúa qua Đức Giêsu bởi vì họ sẽ được chúc phúc.
Biến cố Truyền Tin, câu chuyện Thăm Viếng nằm ở chương đầu tiên của Phúc Âm Luca và thánh sử muốn giới thiệu với độc giả về chương trình cứu độ của Thiên Chúa qua một nhân vật đặc biệt là Đức Giêsu, Người là Thần-Nhân – vừa là Thiên Chúa vừa là con người – được sinh ra bởi một phụ nữ là Đức Maria.
Vinh dự được làm mẹ Đức Giêsu là điều vô cùng lớn lao, chẳng còn vinh dự nào khác lớn hơn dành cho một con người. Nhưng chúng ta không thể dừng sự yêu mến, kính trọng nơi Mẹ Maria mà phải nhìn đến Chúa Giêsu, đây là điểm thánh sử Luca muốn nhắc nhở chúng ta trong đoạn kế tiếp qua kinh Magnificat – đó là lời chúc tụng Thiên Chúa của Đức Maria – để độc giả hiểu rằng vinh dự làm mẹ của Đức Maria là nhờ được Thiên Chúa chọn trong chương trình cứu độ của Người.
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tì hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc…”
Tóm lại, ý nghĩa thần học mà thánh sử Luca muốn gởi đến độc giả là thai nhi trong lòng Đức Maria là Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ, đó là người mà chúng ta mong đợi sự giáng trần của Người.
Qua sự hiểu biết trên đây, chúng ta sẽ áp dụng ý nghĩa bài phúc âm này vào thực tế đời sống như thế nào?
Cũng như Đức Maria nhờ có Chúa trong lòng nên đã can đảm dấn thân, thể hiện tình thương yêu đồng loại, chúng ta cũng phải tin rằng Thiên Chúa sẽ ban sức mạnh cho chúng ta khi sống phúc âm, khi cố gắng đối xử với người khác cách tốt đẹp để họ nhận ra Thiên Chúa đang hoạt động qua cuộc đời mình.
Và cũng như bà Êligiabét vui mừng khi được Đức Maria đến thăm, chúng ta cũng phải tự hỏi mình xem, người khác có vui khi gặp gỡ chúng ta hay không? Hay họ tránh né chúng ta – nhất là những người trong gia đình, có thể đó là con dâu/rể, bố mẹ vợ/chồng, hay ngay cả anh chị em? Nói cách khác, chúng ta thực sự có Chúa trong lòng hay không? Bởi vì, một tâm hồn có Chúa thì luôn bình an, luôn nhận biết điều gì quan trọng, điều gì nhỏ nhen, và không thích bắt bẻ, không tự cao tự đại, dễ hòa đồng với người khác vì sự cảm thông, bao dung và khiêm tốn.
Một câu hỏi khác, tuy nhỏ nhưng cần thiết, là chúng ta coi các tượng ảnh đạo đức với ý nghĩa gì? Có những người Công Giáo trong nhà chỉ có tượng Đức Mẹ nhưng không có tượng chịu nạn của Chúa Giêsu, vì họ cho rằng tượng chịu nạn với hình ảnh đau khổ thì “xui”, không nên treo ở trong nhà. Tượng ảnh đối với họ là một loại bùa chú, khác với ý nghĩa của một á bí tích.
Giáo Hội coi các ảnh tượng, xâu chuỗi, nước phép, nơi hành hương, v.v., là các á bí tích, có nghĩa rằng các đồ vật, nơi chốn đó nhắc chúng ta nhớ về Thiên Chúa. Đeo ảnh tượng trên mình, treo trong nhà, trong xe, v.v. là để chúng ta nhớ rằng mình là người theo Chúa Kitô thì phải thận trọng trong lối đối xử. Đừng để ô danh Thiên Chúa.
Chỉ còn gần một tuần nữa chúng ta sẽ mừng lễ Chúa giáng sinh, mừng sự giáng trần của Hoàng Tử Hòa Bình, cầu mong sao mỗi lần mừng lễ Chúa giáng sinh, con người chúng ta sẽ thay đổi dần dần để thực sự trở nên một máng cỏ của sự hy sinh, bác ái, vị tha, xứng đáng được đón nhận sự bình an mà Thiên Chúa ban cho những ai thành tâm thiện chí./.