Bài phúc âm hôm nay đem lại một cơ hội tuyệt diệu để suy nghĩ về sức khỏe và sự chữa lành trong thế giới Địa Trung Hải xưa. Độc giả Tây Phương ngày nay phải tạm ngưng tất cả những gì họ biết về y khoa tân tiến ngày nay để đi vào một thế giới mà vi trùng, kính hiển vi, “máy chụp quang tuyến,” và một chuỗi thuốc chữa trị thật hữu hiệu thì không được biết đến.
Người phụ nữ này bị đau khổ vì vấn đề kinh nguyệt bất thường trong mười hai năm. Máccô thường bất công lên án các y sĩ khi ông nhận xét rằng bà này “bị đau khổ dưới nhiều y sĩ, tốn hết tất cả những gì bà có, và không khá hơn nhưng lại tệ hơn” (c. 26).
Thế giới ngày xưa biết đến tối thiểu hai loại người chữa lành: y sĩ chuyên nghiệp (thầy thuốc) và người chữa lành dân gian (thầy lang). Máccô nói với chúng ta rằng cho đến giây phút bà được gặp Đức Giêsu, người phụ nữ xuất huyết đặt mọi sự tin tưởng và tài nguyên nơi các thầy thuốc. Có lẽ bà có địa vị trong xã hội. Luca, rất có thể không phải là một y sĩ và có lẽ không phải là người được Phaolô nhắc đến trong Côlốtxê 4:14, nói về người phụ nữ này “không thể được chữa lành bởi bất cứ ai” (8:43).
Các thầy thuốc do dự chữa trị các bệnh nhân, bởi vì nếu bệnh nhân chết, y sĩ này cũng có thể bị chết theo. Họ muốn thảo luận về bệnh tật (nhiều người là triết gia-y sĩ) và có thể cung cấp cho bà này một chút gì đó nhiều hơn sự suy nghĩ về triết lý. Trong sách Tân Ước, các thầy thuốc rất ít khi được nhắc đến (Máccô 2:17; Luca 4:23; 8:43; Col 4:14) và chính yếu trong các câu châm ngôn mà chúng rất phổ thông thời xưa.
Các thầy thuốc thời xưa không giống với các y sĩ ngày này. Bởi vì người Do Thái coi Thiên Chúa là người chữa lành chính yếu của họ (Xh 15:26) nên họ biểu lộ một thái độ mâu thuẫn đối với các thầy thuốc, như được phản ánh trong sách Huấn Ca 38:1-23.
Thầy lang thời xưa thì rất phổ thông và sẵn có cho người dân. Họ sẵn sàng dùng đến bàn tay của mình (Ga 9:6), chạm đến người ta (Mc 8:22-26), và ngay cả liều chữa dù không khỏi (Mc 6:5-6). Trong các tường thuật phúc âm, chắc chắn dân chúng coi Đức Giêsu là một thầy lang, nhất là một ngôn sứ tràn đầy thần khí có thể làm yên gió bão, chế ngự các thần độc ác, và phục hồi dân chúng trở về vị trí xứng hợp trong cộng đồng.
Trong các thuật từ nhân chủng học ngày nay, chúng ta không thể biết Đức Giêsu có chữa khỏi ai không bởi vì sự trị bệnh được trực tiếp nhắm đến căn bệnh (vi trùng, độc tố, và những điều tương tự), và chúng ta không có chứng cớ về các căn bệnh mà những người này bị đau khổ. Hơn nữa, ngay cả trong văn hóa Hy Lạp xưa, không có dấu chỉ cho thấy những việc chữa trị thì được mong sẽ vĩnh viễn.
Nhưng trong cùng các thuật từ này, chắc chắn Đức Giêsu đã chữa lành tất cả những ai muốn được lành. Chữa lành là phục hồi ý nghĩa đời sống con người bất kể tình trạng thể lý của họ như thế nào. Trị bệnh thì rất hiếm, nhưng chữa lành xảy ra không thể sai lầm, 100 phần trăm thời gian, bởi vì sớm hay muộn mọi người lấy lại ý nghĩa của mình trong đời sống và hồi phục địa vị xứng hợp của mình trong xã hội.
Đây là điều chắc chắn Đức Giêsu đã thực hiện cho người phụ nữ xuất huyết. Tình trạng của bà phục hồi sự ô uế theo nghi thức và không chỉ cản trở bà được vào Đền Thờ nhưng còn đòi hỏi rằng bà phải tự tách mình ra khỏi cộng đồng, tương đương với cái chết về xã hội trong thế giới Địa Trung Hải.
Hãy lưu ý rằng nhiều khi Đức Giêsu không ý thức và không kiểm soát được sức mạnh của Người (xem c. 29). Người phụ nữ này gợi ra điều đó mà Người không biết hay không cho phép. Tuy nhiên, Đức Giêsu tuyên bố rằng bà này và chính Người biết điều gì xảy ra: “Hỡi con! Tình trạng này không còn nữa; chào mừng con trở lại với cộng đồng.”
Trong thế kỷ thứ nhất, 60 phần trăm trẻ sống sót sau khi sinh thì thường chết vào khoảng thiếu niên. Cảnh tượng được trình bày ở đây là một điều rất phổ thông.
Cũng như các thầy lang thời xưa, Đức Giêsu đôi khi dùng một công thức. Sự kiện rằng Phúc Âm tiếng Hy Lạp giữ lại những lời của Đức Giêsu bằng tiếng Aramaic “Talitha cum” (“này con, hãy chỗi dạy”) phản ánh niềm tin tưởng thời xưa rằng sức mạnh thì trong những lời nguyên thủy và không phải là lời dịch. Một số người liên kết điều này với pháp thuật.
Sự nhạo cười của đám đông khi Đức Giêsu nói rằng đứa bé này chỉ ngủ thôi, điều đó thách đố vinh dự của Người. Khi ra lệnh rằng gia đình này không được nói gì, đó là cách trả đũa của Người với đám đông. Họ không thể biết được điều gì đã xảy ra.
Như để minh chứng rằng cô bé này đã được chữa lành, đó là, hồi phục vị trí xứng hợp trong cộng đồng, Đức Giêsu ra lệnh hãy cho cô bé ăn. Đức Giêsu, người chữa lành, phục hồi ý nghĩa cho đời sống và đưa người dân trở về với tình đoàn kết cộng đồng.