Trong Tin Mừng, Chúa Giê-su Ki-tô đã loan báo cho các Tông đồ và các môn đệ mọi thời rằng ai bước theo Người cách đích thật chắc chắn sẽ phải chịu bách hại: "Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau" (Mc 10,30). Chúa còn cảnh báo: "Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết" (Mt 10,17-18). Với thói quen trình bày sự thật một cách thẳng thừng và toàn vẹn, Chúa đã chuẩn bị cho môn đệ mình đón nhận điều tồi tệ nhất: "Em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét." (Mt 10,21-22).
Đó là vì các môn đệ sẽ phải làm chứng về Thiên Chúa, Đấng tạo dựng đất trời, Đấng luôn đòi hỏi nhân loại nên thánh thiện như Người, nghĩa là yêu thương đến tột độ; và làm chứng về Đức Kitô chịu đóng đinh, "sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa" (1Cr 1,24). Nghĩa là công bố cho mọi người tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa, thể hiện qua việc cứu rỗi thế gian nhờ Thập giá Đức Ki-tô, một mầu nhiệm lớn lao và cùng lúc không thể hiểu được đối với loài người.
Để làm được điều ấy, một điều hầu như luôn luôn kéo theo sự bắt bớ, Ki-tô hữu cần có sự khôn ngoan và sức mạnh từ trời cao. Đó là Chúa Thánh Thần: "Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói gì; không phải chính anh em nói, mà là Thánh Thần của Cha anh em nói trong anh em" (Mt 10,19-20).
Điều đó đã xảy ra thời các Tông Đồ. Điều ấy cũng đã lặp lại trong các thời đại khác nhau của lịch sử, ở nhiều lúc và nhiều chỗ khác nhau, trong các cuộc bắt bớ khốc liệt, đặc biệt suốt ba thế kỷ đầu của Giáo hội bên Tây phương.
Giáo Hội Việt Nam suốt ba thế kỷ đầu của mình cũng đã chịu nhiều cuộc bách hại liên tiếp như thế, với một vài lúc ngưng nghỉ, kể từ năm 1533, nghĩa từ khởi thủy việc rao giảng Tin Mừng ở Đông Nam Á. Đã có hàng trăm ngàn Ki-tô hữu bị đưa tới pháp trường, và nhiều hơn thế là những kẻ đã chết trên núi, trong rừng, nơi những vùng đất độc hại mà họ đã bị đày đến, nơi những thôn làng Công giáo bị quan quân bủa vây, nơi những ngôi nhà thờ bị Văn Thân lùa tín hữu vào đó rồi phóng hỏa, dù được tuyên xưng là thánh chỉ vỏn vẹn 117 vị, trong đó có 8 Giám mục, 50 Linh mục và 59 giáo dân vào ngày 19-06-1988
Việc sống đạo và chết vì đạo của các đấng đã xảy ra trong những tình thế rất phức tạp.
Chính đó là những thách thức đối với vua chúa lẫn xã hội đương thời, và trở nên lý do khiến các đấng bị bách hại.
Các thánh Tử Đạo tại Việt Nam như thế là những người gieo của Thiên Chúa mà Thánh vịnh đã 126 [125] đã ám chỉ: "Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo" (c. 5). Nước mắt và máu của các đấng đã tưới vào hạt giống Tin Mừng, hạt giống ân sủng, để ơn huệ Đức tin có thể trổ sinh dồi dào: "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác" (Ga 12,24).
Và từ những đau khổ lẫn tuẫn giáo của các đấng, "mùa gặt của Chúa" đã tới. Thánh vịnh trên tiếp đến gọi các vị Tử đạo là những thợ gặt: "Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng" (Tv 126[125], 5-6).
Mùa gặt đó, lúa vàng đó, hoa trái đó chính là sinh lực của Giáo hội VN, là khả năng và lòng kiên nhẫn của Giáo Hội VN để đương đầu với các khó khăn đủ loại và để công bố Tin Mừng suốt bao thế kỷ qua.
Máu các thánh Tử đạo đã là nguồn ân sủng để Ki-tô hữu đất Việt tiến lên trong Đức tin của tiền nhân. Đức tin ấy đã là nền tảng cho sự kiên trì của tất cả những ai đích thực cảm thấy mình là người Việt, trung thành với nước Việt, đồng thời vẫn muốn làm môn đệ chân chính của Đức Kitô.
Đức tin ấy đã kêu gọi Ki-tô hữu kính sợ Thiên Chúa, yêu thương mọi người, tuân phục chính quyền và các định chế của xã hội trong những gì chính đáng vì lòng mến Chúa.
Đức tin ấy đã kêu gọi Ki-tô hữu làm điều thiện, ứng xử như những con người tự do (x. 1Pr 2,13-17), tìm kiếm thiện ích chung của quê hương như một nghĩa vụ chân thành của công dân Ki-tô hữu, trong niềm tự do công bố sự thật của Thiên Chúa, trong sự hiệp thông với các mục tử và các đồng đạo, trong ước vọng sống an bình với mọi người khác để thành tâm xây dựng thiện ích cho tất cả.
Và đó là điều mà chúng ta đã thấy từ thời các chứng nhân Tử đạo cho đến hôm nay trên đất Việt, qua vô vàn chứng nhân Ki-tô hữu Việt Nam khác nữa.
Các Thánh Tử đạo đã trở nên những của lễ toàn thiêu, kết hợp với hy tế Thập giá của Đức Kitô khổ nạn. Các đấng đã là chứng nhân cho chiến thắng của Đức Kitô trên tử thần, cho ơn gọi của con người là được bất tử! Nhờ thế các đấng đã thông phần vào việc cứu độ trần gian do Người thực hiện, và nay đang được hạnh phúc muôn đời. Đúng như sách Khôn ngoan 3,5-9 đã nói về họ.
Là con cháu, là hoa trái của các đấng, chúng ta cũng được hứa hẹn những điều như thế nếu chúng ta tham gia vào thống khổ và thập giá của Đức Ki-tô, để thông phần vào việc cứu độ trần gian do Người thực hiện. Và như vậy, mùa gặt của các Thánh Tử đạo Việt Nam sẽ kéo dài mãi trong hân hoan qua tất cả chúng ta!