Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai, và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa đã phán qua miêng ngôn sứ: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.
Nếu ai đã từng xem cuốn phim “Đức Giê-su thành Nadarét” của đạo diễn Franco Zeffirelli (1977) chắc còn nhớ phân cảnh Thánh Giu-se nằm mơ thấy Đức Ma-ri-a bị ném đá chết vì tội “ngoại tình”. Nếu không thì hẳn cũng đã có lần được xem một vở kịch diễn lại bài Tin Mừng hôm nay, trong đó có cảnh Thánh Giu-se khắc khoải, lo âu, dằn vặt, thậm chí xấu hổ hay phẫn nộ trước sự kiện Đức Ma-ri-a mang thai mà ngài chẳng biết nguyên cớ từ đâu và ai là tác giả. Đó là những tình tiết lâm ly bi đát, đầy kịch tính, làm khán thính giả bồi hồi xúc động, nhưng có lẽ không nằm trong nhãn giới của tác giả Tin Mừng. Cái đó, theo các nhà chú giải hiện nay, là do cách dịch chưa đúng về một vài từ Hy-lạp trong văn bản.
Mở đầu bản văn bằng câu “Đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô” và bằng chi tiết “Trước khi hai ông bà về chung sống, Ma-ri-a đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”, Mát-thêu muốn chứng minh cho độc giả Do-thái của mình thấy làm sao Đấng Cứu Thế sinh ra thiếu cha trần gian mà vẫn thuộc về dòng dõi Do-thái và con cháu Đa-vít được (trong lúc Lc 1,26-38 thì trình bày mầu nhiệm cưu mang đồng trinh cho độc giả lương dân). Việc lạ lùng này, chắc hẳn Đức Ma-ri-a đã tỏ lộ cho người bạn đời yêu quý (bà chị họ Ê-li-sa-bét mà còn được biết nữa là, vả lại sứ thần đâu có cấm: x. Lc 1,39-45). Với hai lý do: một là cho Thánh Giu-se chia sẻ niềm vui và vinh dự bà được chọn làm mẹ Con Đấng Tối Cao, hai là để thánh nhân khỏi nghĩ dông dài, nhất là rồi đây Đức Ma-ri-a sẽ vắng nhà nhiều tháng. Việc Mát-thêu nêu sự kiện lạ lùng ngay từ đầu bản văn cũng ngầm ý như vậy. Thế nhưng việc tỏ lộ này đặt Thánh Giu-se vào một hoàn cảnh khó xử.
Theo nhiều nhà chú giải Công giáo hiện đại, khi kết hôn với nhau, hai ông bà chắc dự tính sẽ có con với nhau một cách bình thường (Cựu Ước luôn cho hôn nhân là tốt đẹp và con cái là hồng ân cao cả, còn vô sinh vô hậu là tủi nhục lớn lao), đồng thời cầu mong con họ sẽ được Thiên Chúa chọn làm Đấng Thiên Sai như bao mộng ước của mọi gia đình Do-thái thời đó. Thế nhưng, đang lúc chưa chung sống, Đức Ma-ri-a đã được sứ thần báo tin cho biết Thiên Chúa đã chọn bà làm mẹ Đấng Thiên Sai nhưng bà sẽ sinh con một cách nhiệm lạ -do quyền năng Chúa Thánh Thần- vì người con đó chính là Con Thiên Chúa. Đây là điều mà Cựu Ước cũng như hai ông bà không thể ngờ nổi!
Đứng trước mầu nhiệm cao cả này, Thánh Giu-se đâm băn khoăn. Từ nay, Thiên Chúa đã can thiệp vào mối dây liên hệ của đôi bạn, đã sử dụng Đức Ma-ri-a như phương tiện để thực hiện kế hoạch lớn lao của Người. Từ nay Đức Ma-ri-a đã trở thành một vật thánh, thuộc quyền sở hữu của Đấng Tối Cao. Thánh Giu-se tự nghĩ mình không có quyền động đến nàng nữa. Và dù không động đến nhưng nếu tiếp tục chung sống trong một nhà, tới lúc con nàng sinh ra, chắc thiên hạ sẽ nói là con của đôi bạn. Để cho ai nấy lầm tưởng như thế là một sự bất công với Thiên Chúa vì hài nhi là Con của Người. Công bố chuyện này cho thiên hạ ư? Ai mà tin nổi! Có dấu chứng nào? Vả lại Thiên Chúa đâu đã tỏ ý định hãy loan truyền cho bá tánh! Thế là Thánh Giu-se dự tính ra đi, bỏ mặc cho Thiên Chúa đích thân giải quyết mọi chuyện... Người xử sự như bao người công chính trong Cựu Ước là run khiếp trước sự hiện diện của Đức Chúa (Mô-sê cởi giày trước bụi gai rực cháy, I-sai-a khiếp đảm trước sự xuất hiện của vị Thiên Chúa thánh ba lần), nên không dám đoạt lấy một thành quả bởi tay Người. Vả lại, hiểu cách tự nhiên tức thời, công chính, công bình -hay just, juste trong tiếng Anh tiếng Pháp- có nghĩa là của ai thì trả cho người ấy, không vi phạm quyền lợi và sở hữu của tha nhân. Chính cách dịch mới : “Giu-se là người công chính và không muốn tiết lộ chuyện bà” hoàn toàn hỗ trợ cho lối giải thích vừa nói trên đây. Từ Hy-lạp dùng ở đây là “deigmatisai”, tương đương với từ “paradeigmatisai”. Nhưng trong lúc “paradeigmatisai” có nghĩa là “tố giác, bêu nhục” thì “deigmatisai” lại chỉ có nghĩa là “tiết lộ, bày tỏ”, theo Giáo phụ Origène, Giám mục Eusèbe de Césarée và Linh mục Paul Joüon, SJ, thành viên Viện Kinh thánh Giáo hoàng, tác giả cuốn “L’Évangile de Notre-Seigneur Jésus-Christ, traduction et commentaire du texte grec tenant compte du substrat sémitique” (Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô, dịch và chú giải bản văn Hy-lạp, có lưu ý tới ảnh hưởng tiếng Xê-mít).
Lối giải thích cho rằng Giu-se công chính chiếu luật (vâng lời Lề luật) là không ổn, vì chả có luật nào buộc phải ly dị hôn thê mới bị coi như là ngoại tình cả (x. Đnl 22,13-21.23-27 chỉ liên hệ tới hôn nhân hoàn hợp, như Đnl 24,1 làm chứng). Đàng khác, nếu âm thầm ly dị Ma-ri-a, thì Giu-se lại càng bất tuân Lề luật, vì chứng thư ly dị chỉ có giá trị pháp lý khi mang tính cách chính thức công khai (Đệ Nhị Luật có nói đến việc ly dị tổ chức ở cửa thành). Thành ra đây là sự công chính tôn giáo, sự công chính đòi hỏi Giu-se tôn trọng công trình Thiên Chúa nơi Ma-ri-a và cấm ông không được đoạt lấy công lao của một hành động thần linh.
“Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông”. Thiên Chúa cuối cùng đã can thiệp: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón Ma-ri-a vợ ông về”. Đến đây, các nhà chú giải hiện nay đề nghị cách dịch khác cho từ Hy-lạp gar mà xưa nay vẫn chỉ dịch là “vì” (“Vì người con bà cưu mang...”) và cho từ Hy-lạp dé mà xưa nay vẫn chỉ dịch là “và” (“và ông phải đặt tên...”). Từ “gar” còn có nghĩa: “vì quả thật, tất nhiên, phải” và thường gặp trong Tân Ước (x. Mt 18,7; 1Cr 9,19; 1Tx 2,20...); từ “dé” cũng còn có nghĩa “nhưng”: “Vì quả thật người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai, nhưng ông phải đặt tên con trẻ”. Từ “quả thật” nói lên một sự thực mà Giu-se đã rõ (nên đây không có vấn đề mặc khải mầu nhiệm cưu mang đồng trinh). Như vậy, lời sứ thần là một luận cứ xác nhận khác cho lối dịch “tiết lộ” nói trên. Đức Ma-ri-a sẽ sinh con “nhưng” Thánh Giu-se sẽ đặt tên cho con trẻ: đặt tên (quyền của người cha) là thừa nhận kẻ được đặt tên như con của mình. Theo phong tục Do-thái, con đẻ hay con nuôi đều có giá trị như nhau trước pháp luật, nghĩa là con nuôi cũng hoàn toàn thuộc về dòng dõi cha nuôi với mọi quyền lợi và nghĩa vụ y như con đẻ. Cách giải quyết của Thiên Chúa thật tài tình: lợi dụng một điều khoản trong luật pháp Do-thái (con nuôi # con đẻ, mà chắc Người đã xui khiến cho có), Thiên Chúa hoàn tất lời Thánh Kinh: Đấng Thiên Sai sẽ thuộc dòng dõi Đa-vít dù là con của một Trinh nữ, có cha là chính Thiên Chúa.
Còn một lý do thực tế: cần phải tạm thời che giấu mầu nhiệm Ngôi Hai nhập thể (khó chấp nhận khi chưa có ngôn hành xác quyết của chính Đức Giê-su) bằng cách để thiên hạ lầm tưởng Giu-se là cha đẻ của Người. Sự hiện diện của Thánh Giu-se trong ngôi nhà Na-da-rét còn cần thiết để bảo vệ thanh danh Đức Trinh Nữ cũng như để chăm sóc nuôi dưỡng Ấu Chúa và Mẹ Người.
Đến đây, ta có thể hiểu rõ thêm nữa về sự công chính của Thánh Giu-se: đó là sự thức tỉnh nội tâm đối với Thiên Chúa, một sự thức tỉnh vốn giúp người có khả năng đón nhận và hiểu rõ sứ điệp, dẫn người tức khắc tới chỗ vâng phục. Dẫu cho đến nay người đã bối rối trước các chọn lựa khác nhau của mình, giờ đây người biết đâu là đường lối hành động đúng đắn. Là một người công chính, người vâng theo các mệnh lệnh Thiên Chúa truyền dạy.
“Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa đã phán qua miệng ngôn sứ: ‘Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta’. Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy, và đón vợ về nhà”. Vậy là bên cạnh Đức Ma-ri-a, bà Ê-li-sa-bét, Thánh Giu-se nay cũng hiểu: vừa là con Thiên Chúa, vừa là con loài người, Đức Giê-su đúng là Em-ma-nu-en thật (x. Is 7,14). Ngay cả cho dù không thực sự mang cái tên độc đáo này, Người vẫn là Em-ma-nu-en, như toàn bộ Tin Mừng sẽ cố gắng minh chứng, là Thiên-Chúa-ở-cùng-nhân-loại trong chính bản thân Người. Hai bản tính trong một ngôi vị này khiến Người có thể đền tội xứng đáng, đầy đủ cho chúng ta và nhất là có thể thần hóa chúng ta, làm chúng ta nên con Thiên Chúa, thông phần bản tính Người: “Con Thiên Chúa đã làm người để biến chúng ta thành Thiên Chúa” (thánh Athanasiô), “Thiên Chúa đã làm người, để biến chúng ta thành thần linh” (thánh Irênê). (Tương tự chúng ta vì là vật chất và tinh thần nên có thể tinh thần hóa vật chất vậy).