Trong thời Giáo Hội tiên khởi có hai sự kiêng cữ. Thứ nhất là “kiêng cữ toàn bộ” đi trước các ngày lễ lớn và các sinh hoạt bí tích. Tên cổ của sự kiêng cữ này là “statio” có nghĩa canh chừng hay canh thức. Thứ hai là sự kiêng ăn một số thực phẩm nào đó, tỉ như thịt hay chất béo. Việc này có ý nghĩa nhiều hơn về kỷ luật và tự kềm chế. Sự kiêng cử “statio” thì toàn bộ và là một ý nghĩa của sự canh chừng và canh thức điều gì đó. Sự kiêng ăn thì tổng quát và cá biệt hơn, để giúp một người rèn luyện và tự kềm chế. Sự kiêng cữ toàn bộ ngày nay vẫn còn được giữ trước khi Rước Lễ. Sau khi Rước Lễ, sự kiêng cữ toàn bộ chấm dứt vì Chúa Giêsu đã nói rõ rằng chúng ta không ăn chay khi chàng rể ở đây, nói cách khác, điều mà chúng ta canh thức thì đã đến. Ngược lại, sự kiêng ăn vẫn được tiếp tục vào các ngày Chúa Nhật vì rất có thể đó là điều quan trọng để có hiệu quả.
Vậy, những nhận xét đầu tiên này dậy chúng ta rằng bí tích Thánh Thể thường chấm dứt một sự chuẩn bị. Bí tích này luôn chu toàn một mong đợi. Nhưng làm thế nào sự kiêng cữ lại trở nên một phương tiện quan trọng để chuẩn bị cho bt Thánh Thể và luyện tập nhân đức qua sự kỷ luật? Sự kiêng cữ Kitô Giáo được thấy trong hai biến cố có liên quan với nhau trong Kinh Thánh: việc “phá vỡ sự kiêng cữ” bởi ADong và EVà; và việc “tuân giữ sự kiêng cữ” bởi Đức Kitô khi khởi đầu sứ vụ của Người.
Nhân loại “sa ngã” tách rời khỏi Thiên Chúa và đi vào tội lỗi bắt đầu với việc ăn. Thiên Chúa công bố cấm ăn trái của một cây duy nhất, cây biết lành và dữ (St. 2:17), và ADong, EVà đã phá vỡ sự kiêng cữ này. Sự kiêng cữ ở đây có liên hệ với mầu nhiệm sự sống và sự chết, sự cứu độ và sự luận phạt. Thực phẩm duy trì sự sống trong thế giới vật chất, mà nó sẽ mục nát và tiêu tan. Nhưng Thiên Chúa “không dựng nên sự chết” (Khôn Ngoan 1:13). Nhân loại, trong ADong và EVà, đã từ chối một đời sống chỉ tùy thuộc vào Thiên Chúa vì người ta không chỉ sống “nhờ cơm bánh” (Thứ Luật 8:3; Mt 4:4; Lc 4:4). Toàn thế giới được trao cho con người như một loại thực phẩm, như một phương tiện cho sự sống, nhưng “sự sống” có nghĩa sự hiệp thông với Thiên Chúa, chứ không chỉ thực phẩm. Thảm kịch ở đây thì không tùy thuộc nhiều ở việc ADong ăn thực phẩm, nhưng ông đã ăn thực phẩm vì lợi ích riêng, là “tách biệt” khỏi Thiên Chúa và độc lập với Người. Tin rằng thực phẩm đó tự nó có sự sống và như thế ông có thể trở nên “giống như Thiên Chúa”. Và ông đã đặt lòng tin nơi thực phẩm. Loại đời sống này dường như được xây dựng trên nguyên tắc rằng thực sự người ta sống “chỉ bởi cơm bánh”.
Tuy nhiên, Đức Kitô là ADong mới. Khởi đầu sứ vụ của Người trong Phúc Âm Mátthêu, chúng ta đọc, “Khi Người đã giữ chay 40 ngày và 40 đêm, Người cảm thấy đói.” Đói là một trạng thái giúp chúng ta nhận ra sự lệ thuộc của chúng ta vào điều gì khác – khi chúng ta đối diện với câu hỏi quyết liệt: “đời sống tôi lệ thuộc vào điều gì?” Sa-tan đã cám dỗ ADong cũng như Đức Kitô, khi nói rằng: Hãy ăn đi, vì sự đói khát của ngươi là chứng cớ rằng ngươi hoàn toàn lệ thuộc vào thực phẩm, đời sống của ngươi nằm trong thực phẩm. ADong đã tin và đã ăn. Đức Kitô nói, “Người ta KHÔNG chỉ sống bằng cơm bánh” (Mt 4:4; Lc 4:4). Điều này giải thoát chúng ta khỏi sự hoàn toàn lệ thuộc vào thực phẩm, vào vật chất, vào thế gian. Như thế, với Kitô Hữu, giữ chay chỉ là phương tiện mà qua đó người ta khám phá ra bản tính thiêng liêng đích thật của mình. Vậy, để việc ăn chay có hiệu quả cần có tinh thần giữ chay. Ăn chay của Kitô Hữu thì không liên quan đến việc bớt mập. Nó là vấn đề cầu nguyện và tinh thần. Và vì lý do đó, vì nó thực sự ở vị trí của tinh thần, việc giữ chay đích thật có thể đưa đến sự cám dỗ, và yếu đuối và hồ nghi và bực tức. Nói cách khác, nó sẽ là một cuộc chiến thực sự giữa lành và dữ, và dường như chúng ta sẽ thất bại nhiều lần trong cuộc chiến này. Nhưng chính sự khám phá rằng cuộc đời Kitô Hữu là sự “chiến đấu” và “cố gắng” lại là một khía cạnh cốt yếu của việc giữ chay.
Truyền thống Kitô Giáo có thể kể tên bảy lý do cho việc giữ chay:
Pt TV Nhật lược dịch trong trang mạng của HĐGM Hoa Kỳ