Ba-trăm-năm phúc ân dầy. (1659-1960)
Đàn chiên sung túc xum vầy thái lai.
Hồng ân bao phủ trần ai.
Thượng-thư-bộ-lại Hữu-Bài quận-công.
Vườn ươm Hội-Thánh vun trồng.
Vận động Từ-Đức thắm nồng đức-tin.
Tòa-Khâm-Sứ ánh bình minh.
Phủ-Cam khởi sắc, lung linh sắc hồng. (1925)
Một-chín-hai-tám nắng trông. (1928)
Khánh thành Tòa-Sứ thông công vũ hoàn.
Chũm chọe, nhịp sắc vũ đoàn.
Có Hàng Giáo Phẩm, trần hoàn hát vang.
(*https://www.nghiencuulichsu.com/2016/05/23/nguyen-huu-bai-1863-1935
*https://www.giaoxuvnparis.org/bai-viet/205-than-the-su-nghiep-phuoc-mon-quan-cong-nguyen-huu-bai.html)
Một-chín-ba-hai thêm trang. (1932)
Giáo-phận Phát-Diệm bảng vàng chính danh.
Một-chín-ba-ba tiến hành. (1933)
Giám mục tiên khởi ơn lành quê hương.
Nguyễn Bá Tòng bước mở đường.
Việt Nam hoà khúc miên trường tri ân.
Một-chín-ba-bốn hợp quần. (1934)
Đông-Dương mục vụ dấn thân vùng miền.
Một-chín-ba-lăm tiếp liền. (1935)
Đa-Minh Ngọc Cẩn chủ chiên giám toà.
Một-chín-ba-tám hoan ca. (1938)
Giám mục Đình Thục thăng hoa Thái Bình.
Vĩnh-Long Giáo-phận hoà mình.
Hiệp cùng một nhịp chung tình thọ ơn.
Một-chín-ba-chín Lạng-Sơn. (1939)
Nâng thành giáo phận nhân ơn bội phần.
Một-chín-bốn-mươi hồng ân. (1940)
Đức Cha Đình-Phùng hợp quần đàn chiên.
Can-vê tuôn đổ ơn thiêng.
Tình ca Thập-Giá tiếp liên nghìn trùng.
Tiếng kêu vang vọng giữa rừng.
(Khẩu hiệu Giám Mục "Tiếng kêu trên rừng vắng")
Khẩu hiệu giám mục sáng bừng ơn thiêng.
Lê-Hữu-Từ xót thương chiên.
Vào năm nạn đói trung kiên cứu người.
Một-chín-bốn-lăm chơi vơi. (1945)
Lưu vào ký ức tim người quặn đau.
Tình người chia sẻ cùng nhau.
Thoát cơn bĩ cực nhiệm mầu hồi sinh.
Trời cao tuôn đổ ân tình.
Mưa tràn ân sủng phúc vinh dạt dào.
Một-chín-năm-mươi ngọt ngào. (1950)
Ba vị giám mục tự hào tấn phong.
(Đức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi,
Đức Cha Giuse Maria Trịnh Như Khuê,
Đức Cha Đa Minh Hoàng Văn Đoàn)
Giữa cảnh thế chiến bất đồng.
Chánh-tà, thiện-ác đục trong gieo sầu.
Một-chín-năm-mốt ơn sâu. (1951)
Đức Cha Hữu-Đức chuyển sầu thành vui.
Chia cắt vĩ tuyến ngược xuôi.
Năm-tư lệ đổ chôn vùi tình xuân... (1954)
Vĩ tuyến mười bảy lính tuần. (& anh)
em đứng đợi ngày xuân anh về.
Genève Hiệp-định ký phê.
Tình Nam thương Bắc não nề luyến thương.
Thương quê hương nỗi đoạn trường.
Thương từng góc phố, nhớ đường Duy-Tân.
Thánh đường vang đổ chuông gần...
Sài-gòn tĩnh nguyện tinh thần nhớ nhung.
Một-năm-lăm hẹn trùng phùng... (1955)
Văn-Bình Giám mục vui cùng đàn chiên.
Hiệp thông cùng Đức Cha Hiền.
Sài-Gòn, Đà-Lạt thêm miền Cần-Thơ.
Giáo-Hoàng học viện hằng mơ.
Thêm Viện Công Giáo ươm tơ nuôi tằm.
Khánh thành Hai Viện cùng năm. (1958)
Đào tạo giáo sĩ chuyên chăm linh hồn.
Thăm người bệnh, kẻ neo đơn.
Nhà-thương mở rộng, keo sơn tế bần.
Miền-nam phát triển giáo dân.
Bốn-năm triệu có tăng dần hằng năm.
Đức-Mẹ-Lộ-Đức ban ân.
La-Vang Mẹ vẫn ân cần chở che.
Lòng người Cuộc chiến chia phe .
Mẹ hằng cứu giúp rợp che mọi phần.
Con cái giữa chốn phong trần.
Dưới tà áo Mẹ tinh thần bình an.
Một-chín-năm-chín toả lan. (1959)
Đại-Hội-Thánh-Mẫu chứa chan ơn lành.
Hàng-Giáo-Phẩm tổng điều hành.
Hồng-Y-đặc-sứ chúc lành vui chung.
Tín hữu Công-Giáo tương phùng.
Giáo-Hoàng hoan hỉ chúc mừng Việt Nam.
Một-chín-sáu-mươi sang trang. (1960)
Giáo-Hoàng ban sắc âm vang nhiệm mầu
Từ hai Giáo-phận ban đầu.
Hai-mươi-giáo-phận nhịp cầu gia tăng.
Hà-Nội mười cụm Hoa Đăng.
Huế thì bốn đoá Bằng Lăng đợi chờ.
Sai-gòn sáu bụi Hồng mơ.
Hai mươi giáo phận dệt thơ trao tình.
Mario Brini hành trình.
Giáo đường chuông đổ hòa mình ngân vang.
Long-Xuyên, Đà-Lạt lên đàng...
Quy-Nhơn gọi Huế Nha-Trang sẵn lòng
Vinh vui đổi gió Hải-Phòng...
Thái-Bình, Hưng-Hóa, Vĩnh-Long mong chờ
Kon-Tum ríu gọi Cần-Thơ...
Lạng-Sơn, Thanh-Hóa mơ chờ Bắc-Ninh.
Sài-gòn, Hà-Nội hữu tình...
Mỹ-Tho vương vấn hành trình Bùi-Chu.
Phát-Diệm vững chí đường tu.
Đền Phêrô ví thiên thu nhiệm mầu.
Bốn-trăm-năm cuộc bể dâu. (1533-1933)
Ba-trăm-năm trải thương đau trưởng thành. (1659-1960)
(https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/tien-trinh-lich-su-cua-viec-thiet-lap-hang-giao-pham-viet-nam-42211 viết ngày 1/9/2010 của Lm Phêrô Nguyễn Thanh Tùng)
Ví từ văn hóa Hy-La...
Đến thời Pháp thuộc đã là bao năm.
Ví từ chữ Hán xa xăm.
Đến La-tinh-hóa tình thâm nguyện cầu.
Trường-Sơn nắng gió dãi dầu.
Công cuộc-truyền-giáo khởi đầu trường ca.
Bản đồ Việt có Hoàng Sa.
Dòng-Tên phác hoạ trưng ra cộng đồng.
Sách Y-Sử-Địa góp công. (tr220,t1,sđd.BĐS)
Tiếng-Việt khởi sắc vun trồng Việt-Văn.
Ngày xưa Hán-tự khó khăn.
Nay La-tinh-hóa giọng văn rõ ràng.
Diễn tả con chữ dễ dàng.
Ngôn ngữ trong sáng lọc sàng tinh hoa.
Cung bậc như khúc diễn ca . (&.Quốc âm)
Âm điệu bằng trắc thiết tha dạt dào.
Đánh vần ghép tự thanh tao.
Người người học chữ ứng trào thi nhân.
Ngàn năm văn vật phong trần.
Thu vàng tiếp nối tình Xuân đợi chờ.
Cha Pi-na nặng tình thơ.
Nốt-nhạc du hý, nốt chờ ký âm.
Tinh túy tuyệt diệu thăng trầm.
Tròn âm rõ chữ không lầm tai chê.
Ba-bel sấm sét ê chề.
Ca-in nhuốm tội não nề tâm can.
Chiến-tranh-thế-giới hoang tàn. (1914-1918)
Hai lần thế chiến ngút ngàn đau thương. (1939-1945)
Giàu-nghèo-giai-cấp sầu vương.
Hiệp ước quốc tế, chớ phường mị dân.
Phe đảng chia chác cổ phần...
Tập đoàn cá-mập đong cân kinh tài.
Lược qua để thấy thiện tai.
Sử-Việt-Công-Giáo trải dài thăng hoa.
Ơn Chúa hồng phúc chan hoà.
Tổ chức, cơ cấu vượt qua thác ghềnh.
Niềm tin cậy mến bồng bềnh.
Tiền-tài, thác chảy cồng kềnh thế gian.
Nào Pé-trus-Ký đăng đàn. (1837-1898)
Bác-học, Viện-sỹ chẳng màng lợi danh.
Vinh hoa, phú quý chòng chành.
Nay còn mai mất, ơn lành đời sau. (Mc 8, 36)
Nước-Trời mong ước nguyện cầu.
Gia tài vĩnh cửu nhiệm mầu phúc vinh.
Trăm năm một kiếp nhân sinh.
Trần gian quán trọ hành trình về quê.
Đời ai tỉnh giấc cơn mê.
Lữ hành vững bước đường về Nhà Cha.
Vạn-vật mọi sự chóng qua.
Phù vân hào nhoáng mãi là phù vân.
(https://vi.wipedia.org/wiki/Truong_Vinh_Ky ý từ “Lời-Di-Huấn... ngày 28 tháng 1 năm 1870 của Jean-Baptiste Petrus Trương Vĩnh Ký.”)
Kìa Nguyễn-Trường-Tộ công thần. (1828-1871)
An-Nam khai hóa góp phần tương lai.
“Giáo-Môn-Luận”, điều trần dài.
“Thiên-hạ-phân-hợp” nhân ai hợp quần.
***
Ấy...!
“Một kiếp sa cơ muôn kiếp hận
Ngoảnh đầu cơ nghiệp ấy trăm năm”
(Nhất thất túc hành thiên cổ hận
Tái hồi đầu thị bách niên cơ.
(Ý từ https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguyen-Truong_To)
Vì...!
Xây dựng tu-viện bền trăm năm
Kênh-sắt soi bóng...ánh trăng rằm
Dòng Thánh Phao-Lồ lưu tích cũ
Bóng Nguyễn Trường Tộ lưu cố nhân.
Nay...!
(xemthêm: https://www.baonghean.vn/nhin-lai-tu-tuong-canh-tan-cua-nguyen-truong-to-post249682.html đăng: Chủ nhật, ngày 06/02/2022-07:21 Nguyễn Công Khanh)
Hậu-kỳ-cận-đại góp phần... (*1)
Một-tám-tám-sáu đến dần bảy-lăm. (1886-1975)
Sơ lược một-chín-hai-lăm... (1925)
Có Tòa-Khâm-Sứ vương tằm kinh đô.
Phủ-Cam xứ Huế cơ đồ.
Một-chín-ba-ba điểm tô công trình. (1933)
Đức-Piô X hiểu thấu tình.
Giám mục tiên khởi bình minh nắng vàng.
Phát Diệm ân sủng tuôn tràn.
Bổ giám mục phó bình an đất lành.
Sum suê quả ngọt đầy cành.
Chương trình mục vụ đẩy nhanh khắp miền
Đức tin, giáo dục ưu tiên.
La-san, Xuân-Bích thay phiên vun trồng.
Dòng Chúa-Cứu-Thế một long.
Đồng lao cộng khổ hiệp thông chí tình.
Một-chín-bốn-lăm điêu linh. (1945)
Bè phái tranh chấp, chiến chinh chức quyền.
Vận nước lâm cảnh truân chuyên.
Hồn ai cám cảnh oan khiên tủi sầu.
Một-chín-năm-tư thương đau. (1954)
Chiến dịch di tản nhuốm màu biệt ly.
Triệu dân khăn gói ra đi...
Tín hữu nhập cuộc ngoan ngùy kiên trung.
(https://vi.wikipedia.org/wiki/Cong_giao_tai_Viet_Nam
giai đoạn 1954-1975, mã nguồn...)
Cần-Thơ tách phận hào hung.
Nha-Trang thành lập tách vùng Nam-Vang.
Một-chín-năm-bảy chỉnh trang. (1957)
Dòng-Tên trở lại nhẹ nhàng dấn thân.
Giáo-Hoàng-Học-Viện xoay vần.
Đào tạo giáo sĩ hạt mầm đơm hoa.
Truyền-Hình-Đắc-Lộ...lập ra...
Mục tiêu giáo dục hoan ca Tin-Mừng.
Ba Tổng-giáo-phận tương phùng.
Sài-gòn, Hà-Nội hoà cùng Huế mơ.
Mùa xuân dệt khúc tình thơ.
Tay em lần chuỗi như chờ dáng ai.
Dịu dàng như nắng ban mai
Hiệp thông, sứ vụ chung bài tình ca.
“Nữ-Vương-Các-Thánh-Tử-Đạo” giao thoa
Dòng Đa-Minh tách riêng Nhà Việt Nam
Một-sáu-năm-chín kiện toàn. (1659)
Giáo phận Đàng Ngoài, ôm choàng Đàng Trong.
Một-tám-năm-mươi ước mong. (1850)
Được bảy giáo phận hiệp lòng cùng nhau.
Một-chín-năm-bảy thông làu. (1957)
Mười bảy giáo phận, hiệp nhau vun trồng.
Niềm tin tiếp bước cha ông.
Hai-bảy-giáo-phận tình nồng thiết tha.
Một-chín-bảy-lăm xót xa. (1975)
Đoạn trường tân khổ, tân ca thi đàn.
Cậy trông trong cảnh đa đoan.
Kính mến Thiên Chúa bảo toàn niềm tin.
Một-chín-tám-tám ân tình.
Trăm-mười-bảy vị anh linh trước toà.
Mười-chín-tháng-sáu hương hoa. (19/6/1988)
Giáo Hoàng tuyên bố tình ca ngàn trùng.
Trong ly tan…có tương phùng.
Đau thương rèn luyện anh hùng trung kiên.
(https://www.Youtube.com/watch?v=M2K9a6hMf3Q
Đại Lễ tôn phong 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam 19/6/1988. Vatican News-Tiếng Việt)
Nhìn bằng ánh mắt siêu nhiên.
Cảm nghiệm ân phúc linh thiêng diệu kỳ.
Tiếng lòng Chúa giục ra đi. (&.xứ Bắc xưa cũng...)
Năm-tư xưa ấy cách ly tủi sầu. (1954...)
Bảy-lăm trong cảnh bể dâu. (...1975)
Thuyền nhân vượt biển đương đầu sóng cao.
Đức tin dân Việt tuôn trào.
Gieo mầm khắp chốn ngọt ngào vươn lên.
Úc, Âu, Mỹ khắp mọi miền.
Dấu chân người Việt dịu hiền yêu thương.
Xưa!
Thừa-sai gieo giống quê hương.
Nay!
Giáo dân, tộc Việt, dặm trường muôn nơi
Phương tây mảnh đất gọi mời
Đem nguồn ánh sáng Nước Trời chiếu soi
Chân lý tình sáng, trời soi.
Vũ trụ định luật, trông coi muôn loài.
Nhiễu điều phủ lấy giá gương.
Chiến tranh loạn lạc đoạn trường nhân gian.
Hai trăm năm trước mở đàng.
Quốc-âm quốc-ngữ toả lan tượng hình.
Pi-na, Đắc-Lộ chứng minh.
Tiếng-Việt khởi sắc lời bình minh oan.
Đừng thực dân...hỡi quân gian.
Vu oan giá hoạ, theo hàng xâm lăng.
Tình yêu từ chốn vĩnh hằng.
Chân lý soi sáng, vinh thăng cuộc đời.
Trăm năm một kiếp con người.
Kiếm tìm hạnh phúc giữa trời mênh mông.
Tình yêu cứu độ tươi hồng.
Hạnh phúc vĩnh cửu ước mong đợi chờ.
Hồng ân toả sáng ước mơ.
Đoàn con Nước Việt nương nhờ thánh ân.
Hết Phần I