Một-sáu-ba-mươi ơn soi. (1630)
“Nhà thương” thiết lập thêm coi “Tế-bần”
Giáo lý chữ “Nôm” góp phần.
Nghệ-An mười-tám quân nhân theo về. (18 người)
Sáu trăm tòng giáo lập quê.
Hướng lòng thượng giới, khinh chê lợi trần.
Một-sáu-ba-mươi đón xuân.
Bảy nghìn giáo hữu góp phần đông thêm. (7000)
Một-sáu-ba-mốt…êm đềm. (1631)
D’amaral tới trước thềm Thăng-Long.
Kinh đô đẹp bước Cha Dòng. (tr154,t1, sđd.BĐS)
Cardim, Fontès tấm lòng trung trinh.
Majorica đáp ân tình.
Bennardino đăng trình đoàn quân.
Một đoàn giáo sĩ chứng nhân.
Bốn-ngàn tân giáo nhận chân đạo trời. (4000) (tr155)
Ròng rã tám năm…ra khơi (tr156)
Ba-lăm-vạn nữa mưa trời thương yêu. (350000 người)
Hai-mươi họ đạo mỹ miều.
Nhà thờ xây dựng lập nhiều giáo khu.
Đặc ân nhiều vị xin tu.
Thêm nhiều ơn gọi dự trù mai sau.
Majorica thông làu.
Nhiều kinh, nhiều sách giải mau nhu cầu.
Truyện cácThánh đọc nhớ lâu.
Lại thêm “ca-kịch” khởi đầu nghệ nhân.
Nghệ thuật mở lối dần dần. (tr158,t1,sđd.BĐS)
Nào là “ca-vãn” nào lần “ngắm kinh”.
Một lối cầu nguyện tuyệt linh.
“Đối-nhân” tuyệt hảo “đối-linh” tuyệt Thần.
Khắc vào tâm cốt giáo dân.
In sâu trong trí tuyệt luân dễ truyền.
Chỉ cần truyền khẩu nối duyên. (& Già trẻ)
Dẫu không biết chữ, âm truyền chuyển âm.
Một cách hội nhập âm thầm.
Nhưng đầy hiệu qua sóng ngầm lan ra.
Nếu không đến được nơi xa.
Chuyển nhanh thư tín tình xa vẫn gần
Tông-đồ-công-vụ chuyên cần (tr159, t1, sđd.BĐS)
Hai ngàn năm trước hồng ân chuyển cầu.
Thư “Phao-lô” hoá nhu cầu.
Dẫu trong quá khứ, nhiệm mầu hiện linh.
Kỳ diệu việc Chúa anh minh.
Ngàn năm vẫn thắm, lung linh tình Ngài.
Mười lăm thế kỷ an thân (01-1600)
Đến thời hoạ-phúc xoay vần mưa ngâu.
Cầu vồng bảy sắc nối cầu.
Đông-Tây hội ngộ bắc cầu giao duyên.
Bắc-Ninh em hát trên thuyền.
Gieo câu Quan-Họ chính chuyên em mời.
Đất Việt “liền-chị” ngọt lời.
“Liền-anh” đáp trọn ơn trời đã ban.
Một-sáu-ba-chín ơn tràn. (1639)
Tám-lẻ-hai-vạn bạt ngàn ơn thiêng. (82000)
Một trăm giáo họ lập riêng. (100)
Một trăm nhà nguyện lập miền xa xôi. (tr 160)
https://www.hdgmvietnam.com/chi-tiet/bien-nien-su-cua-giao-hoi-cong-giao-viet-nam-25943
Một-sáu-bốn-bốn lửa rèn. (1644)
Đố kỵ, ganh ghét, pha dèm, khinh chê
Trịnh-Tráng chuẩn tấu trăm bề.
Trục xuất giáo sĩ, lệnh về bắt dân.
Giam giáo-hữu “quá-khóa” lần. (quá-khóa=bỏ đạo)
Hoàng cung hoàng tộc hợp quần mong manh.
Đất Trung-quốc cũng phân tranh.. (1618-1683)
Nhà-Minh bị mất, Nhà-Thanh chiếm rồi. (tr 173)
( https://vi.wikipedia.org/wiki/Chien-tranh-Minh-Thanh )
Sợ ảnh hưởng, sợ mất ngôi.
Các vị “thiên-tử” xử tồi chúng dân.
Xung quanh nhan nhãn nịnh thần.
Chia chác tư lợi, giành phần “đỉnh-chung”.
Vua quan bách đạo truy lùng.
An-rê Thày-giảng gông cùm khảo tra.. (1625-1644)
Tình yêu đáp trả giao hòa.
Hiến dâng mạng sống máu hòa Tình-yêu.
Hai-sáu tháng bảy mưa nhiều. (26/7/1644)
Một-sáu-bốn-bốn xoay chiều chứng nhân.
Tiên-khởi-tử-đạo thiên ân.
(https://vntaiwan.catholic.org.tw/andre/5andre.htm
https://tonggiaophanhanoi.org/ngay-26-7-chan-phuoc-an-re-phu-yen-thay-giang-tu-dao)
Một-sáu-bốn-sáu mây vần phương nam. (1646)
Bão giông phủ kín màu lam.
D’Amaral đắm Hải-Nam sóng trào
Công nghiệp Cha đã khởi trao.
Việt-Bồ từ điển ước ao hình thành.
Một-sáu-năm-mốt in nhanh. (1651)
Quốc ngữ xuất bản hành văn câu từ. (*1)
Thanh âm thanh ngữ chỉnh chu.
Lời kinh, sách bổn tùng thư tiến trình.
Việt-Bồ-La-tự..được in.
Như in dấu vết bóng hình Giêsu.
Di-Pina tiếp chỉnh tu.
D’Amaral nối công phu các ngài.
Chữ son quốc ngữ thái lai.
Barbosa nhận đường dài hy sinh.
Bóng hình Thập-Tự khởi linh.
In vào con chữ thắm tình sắt son.
Đến Cha Đắc-lộ vượt non. (tr161, t1, sđd.BĐS)
Ro-ma thủ bản vuông tròn rập khuôn.
(www.giaoxutuyhoa.org/wiki/phep-giang-tam-ngay)
Tròng trành chữ-Việt vui buồn.
Trăm năm gian khó rồng luồn chân mây.
Hạ-Long thoát kiếp họa đây.
Thăng-Long giải thoát vũng lầy Bắc-phương.
Dù Tầu đồng hóa đủ đường.
La-tự mở lối thoát phường lệ nô. (ký tự La-tinh)
Một-sáu-năm-sáu điểm tô. (1656)
Bốn-lăm tác phẩm sóng vồ Hồ Gươm. (*1)
Majorica nhọc gieo ươm.
Ngài xa nhân thế mắt hườm lệ giang.
Thăng-Long hoài nhớ mênh mang.
Nhớ người khai sáng nén vàng đời tu.
Bước chân nối gót Giêsu.
Sống làm con Chúa, giã từ vua-tôi.
Kết thời phong kiến xa xôi.
Kết thời “thần-tử”, chiếm ngôi độc thờ.
Một-sáu-năm-bảy trải thơ. (1657)
Bốn-trăm-mười-bốn nhà thờ dựng xây.
Mười-lăm cái ở Kẻ-Tây. (tr166, t1, sđd.BĐS)
Năm-mươi Kẻ-Bắc tạo đầy cơ ngơi.
Một-trăm-mười-bốn rạng ngời.
Kẻ-Nam bề thế cao vời tháp chuông.
Áo dài sính lễ chiều buông.
Dâng hoa Đức-Mẹ nhẹ tuôn câu hò.
Thanh-Hóa chuông vọng cánh cò.
Theo Đèo-Ba-Dội, tiếng hò lãng du.
Động Từ-Thức nay khởi tu.
Đền-An-Tiêm cũ hoa du đại ngàn.
Thầy-giảng cất giọng ca vang.
Hợp lòng tín hữu rộn ràng tấu lên.
Hơn Ba-lăm-vạn đỗ bền. (tr167)
Tạo nên tôn giáo lập nền dài lâu. (350000 người)
Thầy-giảng tình nguyện dẫn đầu.
Giảng rao Lời-Chúa dãi dầu đường xa. (tr 168)
Bảy-mươi Thày-giảng đơm hoa.
Đem về Nước-Chúa chan hoà nhân thêm.
Ba-mươi-bảy năm êm đềm.
Giáo đoàn xứ Bắc có thêm vạn người. (tr 170)
Hoạ tai đâu phải do trời
Ghen ghét, đố kỵ, lòng người xấu xa
Vu cho bỏ kính Mẹ-Cha.
Bỏ thờ mồ mả Ông-Bà Tổ-Tiên.
Vu không giữ “Khổng” thánh hiền. (KhổngTử)
Cô-hồn không cúng giá liền oan sai. (xem: TĐTV)