Từ khi chịu phép rửa tội nhập Đạo, Kitô hữu chúng ta đã gặp Đức Giêsu trong một mô thức nào đó. Qua thời gian, đáng lẽ càng ngày chúng ta càng đi sâu vào mầu nhiệm Cứu Độ trong những dạng thức thần học, nhưng với một số người, hình ảnh Đấng Kitô đã có hình ảnh khác thay thế. Với một số người khác, hình ảnh Đức Giêsu thuở ban đầu đã bị đổi dạng trôi nổi theo những khuynh hướng hoài nghi của thời đại. Điều này chứng tỏ đa số chúng ta chỉ có thể đón nhận Thiên Chúa theo nhân tính của con người. Suy tư theo nhân tính là khởi điểm của nhận thức. Tuy nhiên, Thiên Chúa không là đối tượng xa cách cho trí óc con người tìm hiểu, nhưng để con người đón nhận và tôn thờ. Đối với Kitô hữu chính danh, từ hình ảnh Đấng Kitô-người, chúng ta phải vươn tới Đấng Kitô-Thiên-Chúa. Chúng ta hãy trở lại gặp gỡ Đức Giêsu từ hình ảnh đầu tiên để chiêm nghiệm sự mầu nhiệm thần tính của Người.
Thánh Gioan Tẩy Giả làm chứng rằng Đức Giêsu là Đấng Messiah (Đấng Thiên Sai), vì ông thấy Thần Khí xức dầu qua dạng chim bồ câu ngự trên Người và Chúa Cha phán rằng “Đây là Con Ta yêu dấu.” Tất cả 4 sách Phúc Âm đều dùng danh xưng Con Thiên Chúa (Son of God -- Thiên Tử) để nói về Đức Giêsu (Lc 1:32, 35; Ga 1:49; Mt 16:15-16; Mc 8:29). Những danh hiệu này dân gian, từ Đông sang Tây, đều dùng để tôn xưng vua. Từ xưa danh xưng vua vẫn dẫn trí óc mọi người đi vào quan hệ vua-tôi của chủng tộc. Dân Do Thái đã chờ đợi đấng Messiah trong hình ảnh vị vua đánh đuổi quân thống trị giải phóng quê hương. Các vị chức sắc Do Thái giáo cũng vin vào ý tưởng ấy mà gán cho Đức Giêsu tội phản nghịch Xêda (Caesar). Họ điệu Người đến dinh tổng trấn Philatô để mượn tay quân La Mã giết Người. Đức Giêsu cố tránh liên hệ vua-tôi theo não trạng chính trị nói trên. Trong thời gian đi giảng đạo, dân chúng nhiều lần muốn tôn Người lên làm vua, nhưng Người luôn luôn bỏ đi trước khi việc ấy có thể xảy ra.
Sau này, mặc dù Kitô hữu chúng ta đã hiểu Vương Quốc Thiên Chúa vượt khỏi lãnh thổ Do Thái, nhưng danh xưng vua vẫn dẫn đến mối tư duy vua-tôi. Trong kinh nghiệm của mối liên hệ này thần dân không thể thân mật với Vua, ngoại trừ lòng trung thành, tôn kính và tuân giữ luật lệ vua ban ra. Trọng tâm sống đạo theo mô thức vua-tôi là vấn đề tội lỗi (được hiểu là phạm luật Chúa). Vì vậy trong Vương Quốc Thiên Chúa, Vua trở thành Đấng siêu ngã kiểm soát mọi hành vi và tư tưởng của con người để luận án thưởng phạt. Mức độ chu toàn luật lệ sẽ minh định sự cứu rỗi của linh hồn trước tòa phán xét cuối cùng, theo luật “thưởng phạt công bằng”.
Truyền thống liên hệ vua-tôi của nhân chủng quá đơn giản về mặt tâm linh. Mô thức này không biểu lộ được ơn sủng của Thiên Chúa. Đức Giêsu mô tả Thiên Chúa là nguồn yêu thương, nguồn tha thứ, và nguồn ân sủng. Người dậy dân gọi Thiên Chúa với danh xưng thân mật Abba (Bố) (Mc 14:36; Rm 8:15). Một Abba, chậm nổi giận, hằng ngày nhìn ra đường đợi đứa con hoang đàng trở về. Khi mới thấy nó từ xa, Abba vội chạy đến không phải để phán xét, nhưng để vui mừng đón tiếp và tha thứ (Lc 15:11-24).
Thánh kinh nói gì về Vua Giêsu? Các tiên tri thời Cựu Ước cho biết vị Vua Cứu Độ thuộc giòng dõi vua David. Ba nhà “magi” xác nhận Người mà các tiên tri nói đến chính là Đức Giêsu. Khoảng năm 520 BC, tiên tri Zechariah (Da-ca-ri-a) đã thị kiến hình ảnh Đức Vua, Đấng Cứu Độ, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, tiến vào thành Jerusalem (Zc 9:9). Đúng như ông tiên báo, khi Đức Giêsu cưỡi lừa vào thành Giêrusalem, dân chúng reo mừng đón rước theo cung cách rước vua. Họ cầm cành lá cây cọ vẫy chào và tung hô “Hosana! Hosana!” (xin Ngài giải cứu). Đức Giêsu trả lời Philatô, “Phải, Ta là Vua, nhưng nước Ta không thuộc thế gian này” (Ga 18:36-37). Vì vậy Công Giáo khảng định Đức Giêsu là Vua với danh xưng “Đức Kitô Vua” (Christ the King), Người là Đấng giải phóng cho cả nhân loại khỏi tội lỗi để được vào Vương Quốc Thiên Chúa.1 Năm 1925, Giáo Hội - qua bản công bố của Giáo Hoàng Pio XI - long trọng tuyên xưng Đức Giêsu là “Chúa Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ” (Lord Jesus Christ Univeral King). “Chúa Kitô là Vua trên các vua, Chúa trên các chúa. Người là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời”.2
Từ xưa chúng ta có thể đã kinh nghiệm giản lược Đức Giêsu qua một hình ảnh nào đó, ngày nay thần học đã bổ túc nhận thức khiếm khuyết này. Theo thần học, chúng ta phải thấy Đức Giêsu trong ba chức vị không tách rời nhau: Tư Tế (Priest), Ngôn Sứ và Vua. Trong thông điệp “Redemptor Hominia” (Đấng Cứu Chuộc loài người) Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên xưng “Chúa Cha cùng Thần Khí xức dầu và tấn phong Đức Giêsu Kitô làm Tư Tế, Ngôn Sứ và Vua” (GLCG 783). Cả ba chức vụ này đều có tính cách duy nhất.
Trong Tân Ước chức Tư Tế chỉ dành cho Đức Giêsu. Người là vị Tư Tế duy nhất, đích thực, “chỉ dâng lễ một lần mà vĩnh viễn làm cho những ai được Người thánh hóa trở nên hoàn hảo” (Dt 10:14). Nền tảng của chức Tư Tế là cuộc hiến tế trên thập giá và cuộc phục sinh của Người. Đức Giêsu vừa là Đấng dâng của lễ trên bàn thờ, vừa là chính lễ vật hy sinh. Đức Giêsu là vị Thượng Tế Cao Cả vì sau khi tế lễ, Người lên ngự bên hữu Đức Chúa Cha (Dt 10:12). Khi linh mục truyền phép bánh và rượu trở thành Mình và Máu Chúa Giêsu, chính Người hiện diện với tư cách Thượng Tế cử hành cuộc tế lễ. Nhờ đó cộng đoàn Kitô hữu được thông dự vào cuộc hiến tế của Chúa Giêsu.
Chức Ngôn Sứ cũng chỉ dành cho Đức Giêsu, vì Người là Con duy nhất của Chúa Cha và là mặc khải cuối cùng. Thánh Gioan cảm nghiệm biểu thị của mặc khải là Lời Nói (Logos). Lời Chúa (Ngôi Lời) nhập thế thành người là Đức Giêsu. Người đích thân hướng dẫn nhân loại qua những mạc khải về Thiên Chúa và chân lý của ơn cứu độ.
Đức Giêsu là Vua vì Người là Đấng cứu độ duy nhất. Người là Đấng ban hành các lệnh truyền và giáo huấn. Người có quyền năng trên các thần dữ và sự chết. Thế giới được tạo ra qua Người và cho Người.
Ba danh xưng trên cũng là ba sứ mạng của chương trình cứu độ. Đức Giêsu đã thực hiện ba sứ mạng này bằng cách thành lập một triều đại mầu nhiệm gọi là Vương Quốc Thiên Chúa (Nước Trời). Vương Quốc ấy ở đâu? Đức Giêsu không nói “Nước Ta chẳng ở thế gian này” nhưng nói “Nước Ta không thuộc thế gian này.” Như vậy Nước Trời ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Lý do Đức Giêsu nhập thế là để thành lập Nước Trời trong thế gian.
Nếu vạn vật hiện hữu theo luật nhân quả thì yêu thương chính là nguyên nhân nội tại của Thiên Chúa. Thiên Chúa là nguyên nhân và cũng là cứu cánh của nhân loại. Tình yêu của Thiên Chúa được cụ thể qua Đức Giêsu. Đức Giêsu là Thiên Chúa hữu hình. Tuy nhiên chúng ta không thể dựa vào những danh xưng theo mô thức văn hóa trần thế để biết về Đức Giêsu Kitô. Căn tính của Người phải dò từ chính những lời tự xưng của Người. May mắn thay, Kinh Thánh đã có ghi nhận những dấu chỉ ấy. Trong thời Cựu Ước chúng ta có hai danh xưng Con Người và Emmanuel.
Tiên tri Đaniel thị kiến một vị thần linh đến từ Thượng Đế. Vị này được ban cho quyền thế vĩnh cửu cai trị muôn dân. Vương quốc của Người không bao giờ tàn. Đaniel không biết miêu tả vị này thế nào nên gọi là Con Người (Son of Man) nghĩa là một vị thần trông giống như người (Dn 7:13-14).3 Đức Giêsu tiết lộ với các môn đệ Con Người chính là Ngài. Đức Giêsu hỏi các môn đệ “Người ta nói Con Người là ai?” Các ông thưa, “Kẻ nói là Gioan Tẩy Giả, kẻ bảo là Êlia, kẻ cho là Giêmia hay một vị ngôn sứ.” Đức Giêsu hỏi, “Còn anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phêrô thưa, “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống (Mt 16:13-16).
Như vậy có hai hướng nhìn về Đức Giêsu. Hướng thứ nhất là theo nhân học. Người ta thấy Đức Giêsu là một nhân vật ngoại hạng, ngang hàng với những bậc vĩ nhân, nhưng vẫn là người phàm. Chiều thứ hai là hướng thần học. Hướng nhìn này dành cho những ai biết căn tính của Đức Giêsu. Với hướng nhìn này Công Giáo đã tuyên xưng Con Người là “Thiên Chúa từ Thiên Chúa, Ánh Sáng từ Ánh Sáng, Thiên Chúa Thật từ Thiên Chúa thật, đồng bản thể với Đức Chúa Cha.”
Đức Giêsu cho biết Con Người không đến thế gian để được người ta phục vụ, mà để phục vụ và hiến dâng mạng sống mình làm giá chuộc tội cho thế gian. Điều quan trọng của lời dậy này là mầu nhiệm Vượt Qua, Chiên Con bị sát tế (Paschal Lamb), biểu lộ căn tính của Đức Giêsu. Sự vĩ đại của Con Người là tình-yêu-Thiên-Chúa (agape) và trở nên nhỏ bé. Trong tất cả các lãnh thổ nổi tiếng Người chọn Nazareth, nơi không ai tin nổi có gì tốt (Ga 1:45-51). Cả thành phố Bethlehem, Người chọn hang lừa để ra đời. Vốn là Thiên Chúa nhưng chấp nhận thân nô lệ và chọn cái chết bị đóng đinh trên thập giá.
Theo ngôn sứ Isaiah, “Một trinh nữ sẽ hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Is 7:14). Kinh Thánh dẫn dắt chúng ta hiểu Đức Giêsu là Đấng Emmanuel (Mt 1:18-24).4 Qua lối sống, Đức Giêsu đã biểu lộ phong cách của Đấng Emmanuel như đã được hình dung trong Cựu Ước. Lời phán của Người mang quyền lực đuổi quỉ, chữa bệnh nan y, và truyền cho kẻ chết sống lại (Mt 11:5). Người nhân danh chính Người để tha tội cho kẻ có tội (Mc 2:10). Tương tự như biến cố Môisen lên núi Sinai nhận mười điều răn từ Thiên Chúa, Đức Giêsu ở trên núi ban ra tám mối phúc thật mà nhân loại phải có để có sự sống. Người sửa đổi luật Môisen để kiện toàn luật lệ.
Ý nghĩa Emmanuel được trọn vẹn khi chính Đức Giêsu dậy rằng, “Ta hằng ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Đức Giêsu không bao giờ tách rời chúng ta nhưng sống với chúng ta trong cuộc đời. Chúng ta là chi thể của Đức Giêsu. Đấng Emmanuel là Cây Nho chúng ta là cành nho. Người là Bánh của sự sống, là Muối thế gian, là Ánh Sáng của thế giới. Vì vậy cuộc sống đạo của chúng ta là tiến trình nỗ lực nhận diện sự hiện hữu của Đấng Kitô.
Bên cạnh Cựu Ước, trong Tân Ước Đức Giêsu cũng cho chúng ta nhiều dấu chỉ về căn tính của Người. Vua Giêsu tự xưng là Đấng Chăn Lành và dân của Người là đàn chiên (GLCG 763-764). Chủ chăn biết tên từng con chiên của mình. Chủ chăn đi trước dẫn lối, tìm nguồn nước, tìm nơi cỏ ngon, và tìm nơi trú ẩn cho đàn chiên. Chủ chăn hy sinh mạng sống mình cho sự an toàn của chiên (Ga 10:1-16). Như vậy chính Chúa Giêsu dẫn dắt Hội Thánh của Người.
Tân Ước cũng dùng danh xưng Chiên Con và Chiên Thiên Chúa để nói về Đức Giêsu trong ý niệm Đấng Cứu Chuộc (Ga 1:29). Vào thời Cựu Ước dân Do Thái thường giết chiên con để làm vật tế lễ trên bàn thờ. Trong bữa tiệc ly, khi Đức Giêsu nói “Đây là Mình Ta” và “Đây là Máu Ta”, Người cho biết Người sẽ dùng chính Mình làm của hy tế. Ngay lúc ấy những vụ sát tế thú vật thời Cựu Ước và tất cả những của lễ sát tế trong lịch sử nhân loại đều trở thành vô nghĩa. Chúng không thể đưa con người đến với Thiên Chúa. Chỉ qua Đức Giêsu, chúng ta mới nối kết được với Thiên Chúa tối cao. Thánh Gioan cho biết, Đức Giêsu là Vua trên các vua, Chúa trên các chúa, vì Chiên Con đã chiến thắng mọi quyền lực của diệt vong (Kh 17:14; 19:11-16).
Vua Giêsu không chú tâm đến luật lệ, nhưng chú tâm đến tình yêu thương. Để dân chúng gần gũi với Mình, Vua Giêsu ví Mình là chú rể và Hội Thánh của Người là cô dâu (Luc 5:34). Hội thánh trần thế là người yêu của Đức Giêsu. Giáo dân chúng ta là những cô dâu, đón chờ chàng rể (Mat 25:1-13). Đó là sự liên hệ của những người thuộc về nhau và hòa vào nhau trong yêu thương. Tuy nhiên vào lúc này Hội Thánh trần thế chỉ là cô gái đã hứa hôn với Chúa Giêsu. Của hồi môn mà chàng rể phải trả là máu của Người như Chiên Con tế lễ để đền tội cho chúng ta.
Thánh Gioan thị kiến tiệc cưới của Chiên Con trên Thiên Đàng diễn ra vào cuối thời. Đó là biểu tượng về sự hợp nhất sau này giữa Chúa Giêsu và Hội Thánh của Người (Kh 19:6-9). Kitô hữu chúng ta hãy giống như cô trinh nữ khôn ngoan, biết cách chờ đón chàng rể, để được về Thiên Đàng cùng Người Yêu của mình.
Đức Giêsu nói, “Ta là Đường Đi, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14:6). Đức Giêsu là Đường Đi vì Người là Đấng trung gian giữa con người và Thiên Chúa. Qua Người chúng ta mới có thể đến với Chúa Cha. Đó cũng là lời an ủi lớn cho chúng ta vì Đức Giêsu đã hứa, ai thấy Người thì cũng thấy Chúa Cha (Ga 14:9).
Đức Giêsu là Sự Thật vì Người là Ngôi Lời Thiên Chúa. Từ Người không có sự giả dối. Lời dậy của Người là chân lý tuyệt đối về chân thiện mỹ cho một cuộc sống vĩnh cửu. Đức Giêsu lên tiếng kêu gọi: “Hỡi muôn dân, ai thuộc về sự thật, hãy nghe tiếng Ta” (Ga 18:37).
Đức Giêsu là Sự Sống vì nơi Người không có sự chết. Những ai ở trong Người cũng sẽ có sự sống. Do đó con người phải được sống lại mà ơn phước này chỉ Thiên Chúa mới có thể trao ban.
Chấp nhận Sự-Thật, Con-Đường và Sự-Sống, theo cách nói của thánh Augustino là hòa nhập vào Đức Kitô Trọn Vẹn (Christus Totus) để được cứu rỗi. Hòa nhập vào Đức Kitô Trọn Vẹn là chấp nhận thay đổi bên trong tâm hồn. Đức Giêsu đã cụ thể hóa ý niệm này: “Hãy tìm Nước Trời trước, mọi thứ sau đó Thiên Chúa sẽ ban cho.” Theo đó chúng ta hãy đặt tâm trí vào sự sống Đạo rồi ý chí sẽ hoàn chỉnh hành động của chúng ta trong cuộc mưu sinh trần thế.
Thánh Gioan cho biết Thiên Chúa chính là tình yêu. Đức Giêsu là cụ thể tình yêu của Thiên Chúa. Con người không thể hiểu nổi sự huyền nhiệm tình yêu của Thiên Chúa. Đức Giêsu cho biết, “Chúa Cha yêu Thầy thế nào thì Thầy cũng yêu anh em như vậy” (Ga 15:9).
Sống đạo trong mô thức tình yêu không nhấn mạnh vào ý thức tội lỗi và sợ hãi, nhưng vào mức độ gắn bó với Thiên Chúa. “Tình yêu loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt. Ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo” (Ga 4:18).
Tuy bản chất con người là kẻ tội lỗi, nhưng không ở vị trí thụ động là kẻ bị phán xét, mà được nhận diện là kẻ lạnh nhạt với tình yêu của Chúa. Vì vậy con người đóng vai chủ động trong nỗ lực hàn gắn tình yêu. Trong chiều hướng ấy tội lỗi không thuần túy là phạm luật Chúa, nhưng là sự bội ước tình yêu hay không có tình yêu. Đức Giêsu gọi kẻ tội lỗi là kẻ mắc nợ (Lc 7:36-44). Có một tình yêu bao la ẩn trong từ ngữ ẩn dụ “mắc nợ”. Kẻ mắc nợ chưa hẳn là kẻ mang án phạt, vì vẫn còn có dịp để trả nợ. Con người chúng ta, ai mà không mắc nợ ít hay nhiều. Đức Giêsu đã dậy chúng ta cầu nguyện: “Xin Cha tha nợ cho chúng con, như chúng con cũng tha cho những kẻ có nợ với chúng con.”
Đức Giêsu là Vua nhưng lại đóng vai đầy tớ rửa chân cho thuộc hạ. Người là Đấng Mêsia nhưng lại nồng nhiệt như vị hôn phu. Đó là sức mạnh tình yêu của Thiên Chúa. Con người được sinh ra qua hình ảnh Thiên Chúa, con người cũng chỉ có thể tồn tại nếu có tình yêu. Tâm hồn chúng ta nên như những cây đèn đón tân lang trong đêm tối của cơn mê tham dục. Đèn không nên cạn dầu khiến phải tắt ngấm chìm vào đêm đen. Tâm hồn chúng ta nên đầy tràn dầu Thần Khí để đón Đấng kính yêu.