Có em bé được cha mẹ đưa đi chịu phép rửa tội. Chị nó thắc mắc, “Em bé mới sinh ra làm gì đã có tội mà phải rửa?” Bà mẹ trả lời, “Nó mắc tội tổ tông truyền.” Câu trả lời đúng theo sách đạo nên không ai dám cãi, nhưng mọi người đều cảm thấy có một sự gì thiếu công bằng. Tại sao tội của một người từ thủa xa xăm nào đó lại bắt người đời sau phải chịu. Theo tín lý, tổ phụ Ađam phạm tội vì đã trái lệnh Chúa ăn trái táo cấm ở giữa vườn địa đàng. Án tội của ông truyền nguyên vẹn xuống cho nhân loại. Con người, vì vậy, mới sinh ra đã có án “tội tổ tông truyền”. Danh xưng có tính cách trói buộc “tội tổ tông truyền” chỉ có trong sách bổn Việt Nam. Sách Giáo Lý Công Giáo (GL) dùng danh xưng “nguyên tội” (original sin) để nói về sự kiện này. “Nguyên tội” có nghĩa là “tội căn gốc”, là tội khởi đầu của con người đã xảy ra từ thời Ađam. Với mối liên hệ phức tạp của lịch sử, giáo lý nguyên tội trở thành nan đề thần học của mọi thời.
Trong khoảng hai thập niên gần đây, giáo hội và thần học đã chuyển mình đón nhận và đối thoại với đà tiến hóa chung của nhân loại. Ánh sáng của các ngành thiên văn học, sinh vật học, sử học, nhân chủng học, v.v. đã khiến thần học không thể vin vào một lý do gì để phớt lờ những thành quả của khoa học và tư tưởng hiện đại. Vì thế truyền thống tín lý cũ về nguyên tội đã được xét lại để đặt vào trong tương quan với môi trường sống của con người. Trong nhãn quan của thần học hiện tại, phán quyết về nguyên tội của truyền thống cổ có tính cách bảo thủ và phi thời gian. Tín lý này không thể coi là nền móng của giáo lý nguyên tội. Ý niệm “tội tổ tông truyền” không được giới thần học gia và học giả chấp nhận. Nếu chúng ta cứ tin theo truyền thống—như sách bổn cũ dạy—kitô giáo sẽ sống trong những tín điều khép kín và tự mình tách rời khỏi môi trường sống của cộng đồng nhân loại.
Chẳng hạn xét theo chiều dài của lịch sử, qui nguyên nhân tội lỗi của chính mình cho tổ phụ Ađam, hay ngược lại, thì không phù hợp. Xét theo khoa sinh vật học, người ta không thể chấp nhận bà Evà là mảnh xương sườn của ông Ađam. Xét theo khoa phê bình sử học thì vườn địa đàng—nơi có cây hiểu biết và cây trường sinh—chỉ có thể là câu truyện thần kỳ. Nếu cho cây hiểu biết là cây táo thì lại càng hoang đường hơn. Xét theo khoa vũ trụ học thì vũ trụ không thể được tạo dựng trong sáu ngày. Tất cả những diễn trình trong Thánh Kinh không thể hiểu theo nghĩa đen. Cũng vậy nhân vật Ađam và sự sa ngã của ông không thể hiểu theo lối sử liệu. Tuy nhiên thần học vẫn xác tín những thuật sự về sáng thế và nguyên tội chính là mặc khải tôn giáo mà Thiên Chúa dành cho con người. Lối kể truyện theo dạng huyền thoại của sách Sáng Thế được chấp nhận, vì mặc khải chỉ có thể diễn đạt bằng thứ ngôn ngữ ẩn dụ không minh bạch như vậy. Vì vậy những thành tố lịch sử được ghi trong sách Sáng Thế chỉ là yếu tố phụ. Điều cần thiết là phải chuyển dịch những mặc khải này qua ngôn ngữ thần học. Nhờ có thần học mà diễn trình về nguyên tội mới duy trì được tính chất vừa thần thoại, vừa là thực tại lịch sử, lại vừa có giá trị mặc khải hợp với trình độ tiến hóa của nhân loại.
Tuy nhiên Giáo Hội Công Giáo không muốn thần học mới tự quyền dùng siêu hình học hay khoa học để giải thích nguyên tội như những dạng học thuyết tôn giáo. Một đàng mở rộng cửa đón tiếp các ngồn tư tưởng hiện đại, nhưng giáo hội không thể để khuynh hướng tục hóa đi quá trớn làm mất mầu nhiệm của nguyên tội. Đàng khác có rất nhiều truyền thống Kitô giáo khác nhau với những hướng nhìn khác nhau. Vì vậy để tránh lạc hướng giáo hội Công Giáo có bổn phận bảo toàn tín lý của mình. Giáo hội xác quyết rằng chiếu theo lịch sử sáng thế, Ađam là người đầu tiên phạm tội. Trong vị thế tổ phụ, tội lỗi của Ađam đã làm mất đi sự thánh thiện và ân sủng sơ khởi. Chính lỗi phạm của tổ Ađam và Evà đã mang tội lỗi và sự chết đến cho họ. Rồi từ điểm khởi đầu đó mà tội lỗi và sự chết mới đến với loài người (Rom 5:12). Nếu Ađam hưởng được sự thánh thiện không phải cho riêng mình, nhưng cho cả nhân loại, thì cũng vậy khi phạm tội, Ađam đã truyền bản tính tội lỗi đến cho cả nhân loại. Ađam có trách nhiệm trong sự di truyền bản tính thiên về tội lỗi và cảnh huống mất ân sủng nguyên thủy xuống cho nhân loại (GL 405). Vì nhân loại nằm trong Ađam, nên con người sinh ra là đã nằm trong tội lỗi. Đó là tội được hiểu theo nghĩa loại suy, nghĩa là bị nhiễm tội (contracted) chứ không phải phạm tội (committed) (GL 404). Ý niệm tổ tông chỉ là biểu tượng của tính liên đới trong tội lỗi và hiệp nhất trong ơn cứu độ, chạy suốt theo dòng lịch sử. Bởi có liên đới trong tội lỗi, nên con cháu Ađam không còn được sinh ra trong tình trạng thánh thiện ban sơ. Sự sa đọa trở nên trạng huống đã có sẵn trước khi con người sinh ra. Vì vậy cái chết của thân xác không đơn thuần là một biến thái tự nhiên của thể vật chất. Nó là hậu quả của án phạt nguyên tội.
Thần học mới đã xoay quanh tín lý trên mà giải thích nguyên tội. Theo đức Gioan Phaolồ II, tín lý nguyên tội phải được xét trong không gian của biến cố sáng thế. Vào thuở sơ khai, Thiên Chúa tạo dựng Ađam giống hình ảnh tốt lành của Người. Thiên Chúa đặt Ađam vào vườn Êđen. Trong vườn Êđen Thiên Chúa đã tạo ra Evà. Sau một thời gian Evà mới phạm tội và lôi kéo theo Ađam. Vậy đã có một thời kỳ sơ khởi thiện hảo đầy ân sủng khi Ađam chưa phạm tội. Thời kỳ này chỉ bị tan vỡ khi Ađam không còn tốt lành như hình ảnh Thiên Chúa. Tốt lành có trước, tội lỗi có sau. Vậy tốt lành và tội lỗi là hai cội gốc song đôi bắt nguồn từ thời sơ khai. Nếu tốt lành có xuất xứ thì tội lỗi cũng phải có một khởi điểm trong lịch sử. Tội lỗi không thể phát sinh từ Thiên Chúa. Nó phải có gốc từ nơi khác. Nếu Ađam và Evà là gốc của nhân loại, vậy tội lỗi—hay nguyên tội—phải phát sinh từ Ađam và Evà.
Đối với thần học mới, cái cội gốc khởi thủy của sự dữ vốn là điều không thể hiểu nổi. Nó là một liên đới huyền bí giữa bản chất thọ tạo là con người, sự can dự của Satan (cũng là tôi tá của Thiên Chúa), và chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Thần học không có chủ ý điều tra tội phạm đầu tiên của Ađam, nhưng cố phát hiện tội đầu tiên của tất cả chúng ta. Điểm then chốt của thần học mới là đưa ra một lối nhìn mới, để mỗi cá nhân đều ý thức sứ mệnh chủ động của mình trong lịch sử, cũng như trong chương trình cứu độ.
Suy diễn theo tín lý về nguyên tội của giáo hội, chúng ta nhận ra con người không mang tội của Ađam, hiểu theo nghĩa “tội tổ tông truyền”, nhưng bị 2 chấn động trầm trọng do lỗi phạm của Ađam gây ra. Thứ nhất là từ khi Ađam phạm tội, thời kỳ ân sủng ban sơ không còn nữa cho nhân loại. Thứ hai, Ađam di truyền bản tính bất toàn cho con người, tuy nhiên bản tính tự do vẫn còn nguyên vẹn. Điều này cũng giống như sự kiện một cặp vợ chồng phạm tội bị ở tù. Từ lúc vào tù cặp vợ chồng này bị mất thời kỳ phước lộc trước đó. Đứa con của họ mới sinh ra đã ở trong tù cùng với cha mẹ. Cha mẹ đã tạo ra một cảnh huống ngục tù cho đứa con mặc dù nó không phạm tội. Đứa con bị tổn thương bởi hậu quả việc làm của cha mẹ. Tuy nhiên cha mẹ không phải là nguyên nhân tội lỗi của đứa con. Đứa con vẫn là một nhân vị tự do và vô tội. Áp dụng vào trường hợp nguyên tội, tuy lỗi phạm bắt đầu từ Ađam, nhưng không nên theo khuynh hướng qui nhân cổ truyền đổ tất cả tội trạng cho Ađam. Con người không phải bị sinh ra trong thế thụ động mắc kẹt trong nguyên tội. Trong thông điệp Centesimus annus, Đức Gioan Phaolồ II cho biết, bản tính con người mang vết thương nguyên tội do Ađam tạo ra. Sự tổn thương này khiến con người có khuynh hướng thiên về sự dữ, nhưng con người vẫn nguyên vẹn là một thực thể tự do.
Thần học mới nhận định rằng lịch sử về tổ phụ Ađam là mặc khải về chính lịch sử của mỗi cá nhân chúng ta. Lỗi phạm của Ađam chỉ là một biểu tượng mẫu gốc dẫn giải về bản chất tội lỗi, hay nguyên tội của mỗi người. Ađam không phải là nguyên nhân tội lỗi của cá nhân nói riêng và của nhân loại nói chung. Nguyên tội thật sự bắt nguồn từ ý chí tự do của cá nhân, nhưng cũng còn là một liên đới sa đọa phức tạp liên bản vị, giữa môi trường và con người. Vì vậy mẫu gốc Ađam là một mặc khải cho biết lý do tại sao tất cả chúng ta đều là kẻ tội lỗi trước mặt Thiên Chúa. Đặc ngữ “nguyên tội” phải được hiểu là “khởi điểm tội lỗi của con người” nói chung.
Khái lược mô thức trên được Robyn Horner cụ thể hóa qua chú giải về huyền thoại Ađam. Ông đã giúp chúng ta hiểu về khái niệm tội lỗi. Quan trọng hơn cả là ý thức nguyên tội chính là tội lỗi của mỗi cá nhân. Tội lỗi được thành hình qua 4 yếu tố chính sau:
Trước hết là yếu tố ý thức về tội lỗi. Ý thức việc làm sai trái là tội lỗi gắn liền với thân phận bất toàn của con người. Hiến Chế Mục Vụ (Gaudium et Spec) của Công Đồng Vaticano II cho biết con người là một thực thể hữu hạn. Tuy vậy con người lại ấp ủ những khát vọng to lớn, bị lôi kéo bởi những quyến rũ về một cuộc sống mà chủ quan cho là tốt đẹp hơn. Con người bị giằng xé giữa những lựa chọn và nhiều lần vì yếu đuối, con người đã chọn những điều tội lỗi. Thánh Âugustin và thánh Phaolô cả hai đều nói về kinh nghiệm của nỗi bất lực không thể làm điều thiện. Trong khi biết điều đó là tốt nhưng ta không làm. Trái lại ta làm những điều mình biết là xấu (Rom 7:19). Vì vậy nguyên tội xét theo thực thể của lỗi phạm thì không nên đặt chủ ý vào sự kiện Ađam ăn trái táo như truyền thống cổ nhấn mạnh. Ăn trái táo, hay làm bất cứ gì, chỉ là hình thức của của tội phạm. Thực thể của nguyên tội là cái dục vọng làm nồng cốt cho hành vi. Tuy nhiên Giáo Hội không đồng hóa dục vọng với nguyên tội vì dục vọng chưa đủ gọi là nguyên tội.
Về yếu tố quỉ dữ, giáo hội xác nhận có quyền lực bóng tối đè nặng trên con người. Trong cổ tích Ađam, quỉ dữ được cụ thể hóa bằng con rắn xảo quyệt. Nếu không có con rắn bà Evà đã không phạm tội. Đức Gioan Phaolồ II, trong nhiều bản văn mục vụ, thường nhắc đến quyền lực ma quỉ tác động trong cõi tâm can con người. Theo ngài, tuy tội lỗi là một hành vi tự do nhưng có yếu tố ác thần tác động trên ý chí của con người. Quyền lực trong cõi đen tối đang tung hoành trên thế gian vốn là xác quyết của thánh Phaolô. Thánh nói, “Cuộc chiến đấu của chúng ta không phải với máu thịt (con người), nhưng chống với thế lực của những bậc uy linh, những kẻ cai trị quyền lực bóng tối, những thần linh quái ác chốn hoàng thiên” (Eph 6:12). Tuy nhiên ma quỉ chỉ là một sức ép bên ngoài. Ma quỉ chỉ có thể tác động được khi con người có dục vọng xấu trong tâm. Quyền lực quỉ dữ chỉ là một thành tố thứ yếu của nguyên tội, nó không phải là chủ yếu của nguyên tội.
Yếu tố tự do rất quan trọng vì nó xác định lỗi phạm là một hành vi cố ý. Vì tự do nên con người phải chịu trách nhiệm về lỗi phạm của mình. Công đồng Cartha làm sáng tỏ tình trạng mù mờ bằng cách khảng định định sự chết là án phạt của nguyên tội. Án phạt cần phải có để phù hợp với ý chí tự do. Như trên đã nói dục vọng không phải là nguyên tội, vậy nguyên tội đã xảy ra như thế nào? Thánh Augustinô là người đầu tiên cho biết nguyên tội nảy sinh trong ý chí tự do. Nhận diện này dẫn tới một hướng nhìn mới về bản chất của nguyên tội. Đó là tình trạng căng thẳng trong nội tâm giữa ý chí tự do và sự lôi kéo của dục vọng. “Bởi vì ngay ở trong con người có những yếu tố xung khắc nhau… Bởi yếu đuối và tội lỗi, con người thường làm những điều mình không muốn và không làm những điều mình muốn”[1] (Hiến Chế Mục vụ Gaudium et Spes, Công Đồng Vaticanô II). Đây là điểm mà Giáo hội muốn nhấn mạnh: con người có bản tính nghiêng về tội lổi do hậu quả sa đọa của Ađam để lại. Trong một lối nhìn mới, thần học gia Rahner gọi sự giằng xé này là tình trạng căng thẳng giữa vật chất và tinh thần. Babriel Daly gọi là bước vượt quá giữa ý thức loài vật và ý thức loài người. Nhất thiết phải có một giai đoạn vượt quá khi con người đang sống do bản năng điều khiển tiến vào tình trạng thiện hảo. Dù cuộc chiến giữa ý chí và dục vọng có khó nhọc thế nào, hậu quả vẫn chứng tỏ tội lỗi chỉ có thể xuất phát từ ý chí tự do của con người. Thiên Chúa trao ban chính mình cho con người một cách tuyệt hảo và vô hạn. Ơn phước này gọi là “ân sủng ban sơ”. Nhưng loài người cần phải trưởng thành qua những vất vả khó nhọc để nhận ra Thiên Chúa. Khi đó con người mới có ý thức về lương tâm, luân lý và trách nhiệm. Con người chỉ đạt đến điểm giác ngộ này khi ý thức của mình được phát triển trong ý chí tự do. Suy ra chính trong ý chí tự do mà con người có tình trạng căng thẳng trong việc định hướng quay đi hay trở về với Thiên Chúa.
Ảnh hưởng của tội lỗi không ngừng lại nơi ý thức chủ quan về tội trên bình diện cá nhân, mà còn liên hệ tới cộng đồng. Con người không sống một mình. Con người liên đới với nhau trong mọi sinh hoạt và chia sẻ thành quả với nhau trong thế liên bản vị. Tất cả mọi người khi phạm tội đều góp vào mức độ sa đọa của xã hội. Cha Schoonenberg tóm tắt khái niệm này trong một nguyên lý: nguyên tội là một thực tại luân lý cá nhân liên hệ với cảnh huống xã hội sa đọa. Cảnh huống xã hội sa đọa là hậu quả tội lỗi do lịch sử để lại. Vì vậy khi được sinh ra, con người đã bị đặt trong cảnh huống sa đọa sẵn có từ trước. Trong đó, từ các cơ chế xã hội bất công, qua sự cám dỗ của ác quỉ, đến những cảnh huống quyến rũ, tới các cơ cấu tội lỗi, chúng đều là những sức mạnh áp đảo con người rơi vào cảnh sa đọa. Suy ra, tội lỗi cá nhân có sự tiếp tay âm thầm của môi trường. Ngược lại bất cứ một hành vi tội lỗi nào của cá nhận cũng mang hậu quả xấu đến cho người khác trong cộng đồng. Đó là lý do Đức Giêsu kêu gọi dân Chúa thường trực sống trong nỗ lực sám hối.
Tóm lại, nguyên tội, hiểu theo nghĩa khởi điểm của tội lỗi, là một liên đới giữa dục tánh con người và môi trường. Vì tất cả chúng ta đều chung trách nhiệm về khởi điểm tội lỗi của mình và của người, nên nguyên tội vừa có tính chất cá nhân vừa có tính chất phổ quát. Nó là một liên kết sa đọa đầy bi đát. Mỗi cá nhân vừa là một tội phạm vừa là một nạn nhân.
Có phải con người bị sinh ra trong một ngõ cụt, trên lưng gánh sẵn bản chất tội do tổ tông di truyền, hiện tại là cảnh huống sa đọa, trước mặt là cái chết? Nhận diện về nguyên tội sẽ còn rất thiếu sót nếu không đặt nó vào đúng vị trí của chương trình cứu độ.
Trong bất cứ suy luận nào, nguyên tội đều được nhận diện là tình trạng tách rời khỏi Thiên Chúa. Ađam ra khỏi vườn địa đàng là biểu tượng Ađam xa lìa Thiên Chúa. Tội của Ađam ăn trái “táo” cấm là hành vi cụ thể hủy bỏ giao ước thiện hảo với Thiên Chúa. Từ đó con người sống với những hạn chế của dục vọng, của đau khổ, và cái chết. Chúng trở thành bản chất con người. Bản chất vốn vô tính, nhưng tội lỗi đã biến chúng mang ý nghĩa sa đọa bi thảm. Công đồng Trentô cho biết hậu quả nghiêm trọng của nguyên tội không những làm mất “sự thiện hảo ban sơ” mà còn làm mất “ân sủng thiêng liêng”. Giáo hội và thần học đều cùng nhấn mạnh đến sự kiện “mất ân sủng thiêng liêng”, vì đó là điểm chính yếu để chú giải ơn cứu độ. Nếu thời kỳ thánh thiện sống trong ân sủng siêu nhiên thủa ban sơ không còn nữa, để có trở lại ân sủng này chỉ còn một cách là con người phải nhờ vào ân sủng siêu nhiên hàn gắn lại. Thánh Phaolô cho biết chính Đức Giêsu, Ađam mới, đã mang ân sủng siêu nhiên trở lại với con người. “Bởi trong Ađam mọi người đều chết, thì cũng vậy trong Đức Kitô mọi người đều sống lại” (1Cor 15:22). Chỉ có Đức Giêsu, Đấng sống trọn vẹn thường trực trong tình trạng siêu việt, thánh thiện, đầy ân sủng và qua mầu nhiệm phục sinh, Người mới có khả năng tái tạo con nguời trong ân sủng và đưa con người về cùng Cha.
Thiên Chúa lập ra phép rửa để tái tạo con người trong sự thiện hảo và ân sủng ban sơ. Đức Giêsu gọi phép rửa là sự tái sinh. Phàm nhân bị thất sủng tái sinh vào thế giới tâm linh đầy ân sủng. Công đồng Trentô xác quyết phép rửa là phương thức duy nhất tẩy sạch nguyên tội. Trước hết phép rửa tái tạo con người bất lực có trở lại ân sủng, hàn gắn con người với mầu nhiệm siêu nhiên để đón nhận ơn cứu độ. Thứ đó theo ơn kêu gọi thiêng liêng trong lương tâm, con người sống trong đức ái cùng nhau nỗ lực phấn đấu rửa sạch những tàn tích ô uế do nguyên tội để lại, nhờ vậy mà sạch khỏi nguyên tội. Vì nguyên tội đã đẩy con người vào vòng tội lỗi, nên ơn cứu độ thực sự cần thiết cho nhân loại. Thiên Chúa kéo con người ra khỏi sự chết bằng sự phục sinh của Đức Giêsu. Những ai theo Đức Giêsu, Ađam mới, thì cũng được dự phần phục sinh như vậy. “Ai không có Thần Khí Đức Kitô kẻ ấy không thuộc về Người. Nếu Đức Kitô ở trong anh em, thì tuy thân xác là đồ chết vì tội lỗi, nhưng thần khí vẫn sống vì đức công chính. Nếu Đấng Thần Khí đã cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng ấy cũng sẽ ban cho anh em sống lại, bởi Thần Khí của Người cũng ngự trong anh em” (Rom 8:9-11)
Khi con người được sinh ra, cảnh huống sa đọa đã có sẵn; nhưng nề nếp tiến bộ, luân lý và văn hóa cũng có sẵn; hơn nữa ơn cứu độ cũng đã có sẵn. Trong một cách thức dồi dào phong phú hơn, con người được sống sẵn trong tình trạng siêu nhiên đầy sức mạnh của ân sủng. Vì vậy cuộc sống nên hiểu là một tiến trình nỗ lực của ý chí tự do đi tìm gặp Thiên Chúa. Vấn đề cuối cùng là tùy ở con người có muốn quay về với Thiên Chúa hay không. Nếu muốn, con người có thể tìm lại nguồn ân sủng ban sơ bằng cách chấp nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa. Thiên Chúa ra sức đưa con người tội lỗi về với mình, nhưng vẫn trọng ý chí tự do của con người.
Vấn đề nguyên tội là một nan đề của mọi thời. Trong cố gắng chú giải bản chất nguyên tội, Robyn Horner cho rằng qua mọi truyền thống tôn giáo và văn hóa, chỉ có giáo lý của Kitô giáo mới trình bày một cách khúc triết về khái niệm nguyên tội. Giáo lý đã diễn giải minh bạch về nguyên nhân, mục đích và kết cuộc của nguyên tội. Trong huyền thoại Ađam, Thiên Chúa cho biết loài người sẽ thắng con rắn. Kết cuộc là ân sủng của ơn cứu độ sẽ toàn thắng sự dữ.