Một bà mẹ trẻ đi khám thai đứa con đầu lòng. Bác sĩ cho biết bào thai có vấn đề bất thường. Bà và chồng sợ hãi kêu gọi thân nhân cầu nguyện cho thai nhi được bình thường. Đến ngày, bà vẫn sanh ra một em bé khuyết tật không có mắt, không có môi, khoang miệng bị hư không ngậm miệng được. Đó là trường hợp của bé Christian (1), một trong muôn vàn nỗi đau khổ đã và đang xảy ra cho con người. Từ lâu con người biết rất rõ “đời là bể khổ”, không ai thoát khỏi đau khổ. Nhưng con người lại không thể chấp nhận đau khổ như một chuyện tất nhiên của cuộc sống. Vì vậy con người đặt vấn đề “tại sao có đau khổ?”
Con người đã cố gắng rất nhiều để tìm câu trả lời. Những câu trả lời đến từ tín ngưỡng dân gian, từ suy tư triết học, và từ niềm tin tôn giáo. Nhưng chúng có nhận diện đúng căn tố của sự đau khổ và có giải được lý do và ý nghĩa của đau khổ? Thật khó mà trả lời dứt khoát có hay không. Ở đây tôi chỉ nói tới những lý giải thường bị ngộ nhận là niềm tin của Kitô giáo.
Truyền thống dân gian từ cổ thời vẫn tin rằng đau khổ là do trời định sẵn. Phần lớn tín đồ Công Giáo cũng nghĩ “một sợi tóc trên đầu rơi xuống cũng do Chúa định” (2). Niềm tin này khiến người ta mạnh dạn an ủi kẻ bị cảnh hoạn nạn: “Chúa đã định như vậy, thôi hãy tuân theo ý Chúa chứ biết làm sao…”
Niềm tin này, vô hình trung, đã khiến nhiều người sợ hãi Thiên Chúa. Đồng thời nó cũng khiến nhiều người tuyệt vọng quay ra oán trách Thiên Chúa. Rồi họ lại sợ hãi vì đã dám oán trách Thiên Chúa khiến sẽ bị trừng phạt thêm. Họ sống trong nỗi ấm ức tại sao Thiên Chúa áp đặt trên họ một số mệnh nghiệt ngã, mà họ không có lỗi. Tại sao có người mới sanh ra trái thận đã bị hư. Tại sao có người cả đời không hút thuốc nhưng vẫn bị ung thư phổi… Trong tâm trí của họ, như triết gia Epicurus (341-270 BC) đã đặt vấn đề, nếu Thiên Chúa là Đấng yêu thương vô bờ bến, tại sao Người thản nhiên nhìn con cái đau khổ. Nếu đau khổ không do Thiên Chúa tạo ra, tại sao Người không thể dẹp bỏ nó. Vậy Người có phải là Đấng toàn thiện và toàn năng hay không. Ngày nay, nhóm người vô thần vẫn tiếp tục lập lại câu hỏi của Epicurus qua những giọng điệu mới.
Theo thần học gia Maurice Zundel, gán cho Thiên Chúa tạo ra sự dữ, dưới bất cứ hình thức nào, đều hoàn toàn sai vì nó mâu thuẫn với những gì Đức Kitô đã mạc khải cho loài người. Đa số các nhà thần học và học giả như Thomas Merton, Peter Kreet… đều cho rằng vì bị kẹt trong niềm tin “đau khổ do Chúa định” nên nó đã trở thành mối thử thách lớn nhất khiến nhiều tín đồ phải chia tay với Thiên Chúa.
Niềm tin “trời quả báo” hay “luật trời” hay “gieo gió gặp bão” là đạo lý chung của mọi dân tộc. Sách Cựu Ước cũng ghi những sự tích trong niềm tin như thế. Chẳng hạn, vào thời ông Noah, Thiên Chúa dâng nước tiêu diệt đám dân sa đọa. Tuy đó là sự trừng phạt nhưng cũng được hiểu là phương cách Thiên Chúa giáo huấn con cái. Cũng như cha mẹ trần thế trừng phạt đứa con có lỗi để nó trở nên khá hơn.
Công Giáo phản đối quan niệm này. Thánh Thomas Aquinas viết, “Nếu Thiên Chúa thưởng hay phạt người ta trong đời hiện tại này, vậy hóa ra mục tiêu tối hậu của ơn cứu độ là sự sống ở cõi đời này hay sao?” (Expositio super Job, 7.1-4).
Ngay chính trong truyện Noah, ý niệm trừng phạt và giáo huấn cũng lạc điệu. Tác giả sách Sáng Thế kể rằng, sau trận lụt, Thiên Chúa hứa với Noah rằng từ nay sẽ không còn trận đại hồng thủy nào đến hủy diệt con người nữa. Chúa tạo ra cái cầu vồng rồi phán, “Đó là dấu chỉ làm chứng cho lời giao ước giữa Ta và mọi loài có xác trên đất" (St 9: 12-17). Ngày nay chúng ta đều thấy “dấu chỉ” cầu vồng ở khắp nơi, nhưng những trận bão lụt vẫn xảy ra, chẳng hạn trận tsunami ở Sumatra năm 2004 giết chết 230,000 người, trong đó có rất nhiều trẻ em vô tội và thai nhi chưa ra đời. Liên kết sự đau khổ của những nạn nhân này với niềm tin Thiên Chúa trừng phạt dân tôi lỗi, chúng ta thấy các mắt xích không nối kết với nhau. Chẳng lẽ dấu chỉ cầu vồng không còn giá trị. Với những trẻ em chết đuối chúng đã phạm tội gì đến phải lãnh án tử hình? Thêm nữa, thông thường cha mẹ trừng phạt con cái bao giờ cũng có lời dạy đi kèm. Với những người đã chết, lời răn dạy còn có ích lợi gì?
Cho đau khổ là một bài học là cách giải thích theo lối loại suy. Khi con người đau khổ, con người dễ nhận ra những lỗi phạm, đến sự chết, và sự phán xét theo lẽ công chính. Đôi khi Thiên Chúa gửi đến đau khổ để thức tỉnh con người, nhờ đó con người chạy đến với Thiên Chúa. Về quan điểm này, người ta thường đưa ra dụ ngôn của Đức Giêsu về “đứa con hoang đàng” để dẫn chứng. Đứa con hoang đàng sống buông thả theo dục vọng. Đến khi sa chân vào đường cùng, bấy giờ mới thức tỉnh về lỗi lầm của mình, mới ý thức sự nâng đỡ của người cha (Thiên Chúa). Khi không thể hoán chuyển hoàn cảnh, bấy giờ con người mới quay vào bên trong để thay đổi chính mình. Học giả C.S. Lewis đưa ra một ẩn dụ: "Thiên Chúa thì thầm trong lương tâm chúng ta khi chúng ta có chuyện vui. Nhưng Người hét to lên khi chúng ta gặp cảnh đau khổ, như cái loa đánh thức một thế giới điếc".
Tuy nhiên chúng ta phải cẩn thận nhìn lại vấn đề cho đúng. Từ đau khổ Thiên Chúa thức tỉnh con người, để con người rút ra bài học. Không phải Thiên Chúa tạo ra đau khổ để dạy cho con người một bài học. Trong ẩn dụ trên, Đức Giêsu cho biết chính đứa con hoang đàng tạo ra đau khổ cho nó, người cha (Thiên Chúa) không hề đẩy con vào chỗ đau khổ. Nói đúng hơn nguyên nhân của đau khổ là dục vọng xấu của con người. Do đó chính con người phải biết hối lỗi, rồi mới có thể nhận ra bài học.
Quan niệm này rõ ràng hơn cả vì nó đặt trọng tâm vào ý chí tự do và trách nhiệm của con người. Chỉ trong ý chí tự do, con người mới có tình trạng căng thẳng trong việc định hướng về thiện hay dữ. Tình trạng căng thẳng này gắn liền với thân phận bất toàn của con người. Thánh Augustin và thánh Phaolô đều nói về kinh nghiệm của nỗi bất lực khi biết điều đó tốt mà không làm, nhưng lại làm những điều mình biết là xấu (Rom 7:19). Dù cuộc giằng co giữa hai ý hướng thế nào, hậu quả vẫn chứng tỏ tội lỗi xuất phát từ ý chí tự do lựa chọn của con người. Vì vậy bao lâu con người còn có ý chí tự do, đau khổ sẽ còn tồn tại. Vì con người tạo ra đau khổ, cho nên con người là nguyên nhân và cũng là nạn nhân của lẫn nhau. Hằng ngày có biết bao nhiêu vụ bắt cóc trẻ em, cướp bóc, hận thù, kỳ thị… làm hại nhau. Kể cả ở tầm mức quốc gia, hằng triệu người đang phải sống trong ách thống trị của những kẻ độc tài.
Theo Công Giáo, Thiên Chúa là Đấng toàn năng, Người có thể loại sự dữ, nhưng Người không làm vì không muốn hủy hoại ý chí tự do của con người. Giáo sư Randy Alcorn lý luận rằng nếu thế giới chúng ta được Thiên Chúa bảo vệ khiến tội lỗi không thể xảy ra, không còn đau khổ, nhưng khi đó con người cũng đâu còn ý chí tự do để lựa chọn. Đời sống sẽ vô nghĩa và người ta sẽ thấy mình như sống trong hỏa ngục.
Thuyết này hợp với niềm tin của dân gian. Họ tin rằng Thượng Đế rất công bằng, Người khiến kẻ “gieo gió ắt phải gặp bão” để cân xứng với những gì kẻ đó đã gây ra cho người khác. Bởi vậy chịu đau khổ là cách xóa nợ những lỗi mình đã mắc phạm. Thuyết nhân quả còn đi xa hơn với thuyết luân hồi khi qui chiếu tội lỗi nằm trong những tiền kiếp xa xăm. Nếu một người hoàn toàn tốt lành mà vẫn chịu nghịch cảnh, điều này chỉ có thể hiểu vì kiếp trước người đó đã gây ra những việc xấu. Nhờ qui chiếu nguyên nhân đau khổ vào nghiệp dữ trong quá khứ, thuyết nhân quả dễ được nhiều người chấp nhận.
Một số Kitô hữu cho rằng “tội tổ tông truyền” cũng nằm trong thuyết nhân quả. Đó là một hiểu lầm đáng tiếc. Giáo lý Công Giáo dạy rằng chúng ta chịu hậu quả của tội tổ tông qua phương thức nhiễm tội (contracted) chứ không qua phương thức phạm tội (committed). Chúng ta vẫn trong sạch và không phải là người trả nợ cho Adam và Eva (GL 404). Sách Tân Ước kể rằng, một lần kia Đức Giêsu và các môn đệ gặp một người mù từ bẩm sinh ngồi bên vệ đường. Môn đệ hỏi, “Thưa thầy, nó bị mù vì tội của nó hay tội của cha mẹ nó.” Đức Giêsu trả lời, “Chẳng phải tội của nó hay của cha mẹ nó” (Gio 9:1-3). Vì vậy xét theo nguyên lý thì không thể liên kết đau khổ của mình vào tội Ađam ăn trái táo.
Một hậu quả nghiêm trọng của thuyết nhân quả là sự phát sinh thái độ máu lạnh vô cảm của người ngoại cảnh. Khi mẹ Têrêsa Calcuta cứu giúp những người nghèo đói nằm hấp hối bên cống rãnh, những tín đồ của thuyết nhân quả phản đối. Họ cho rằng mẹ đã can thiệp vào nghiệp quả của nạn nhân khiến họ không trả được nợ để siêu thoát. Nhưng những người bị bỏ rơi đang quằn quại đau đớn chờ chết là nạn nhân của một xã hội bất công hay do tội lỗi của họ ở một kiếp nào đó? Chúng ta có nên tranh đấu cho những người bị ngược đãi, hay như mẹ Therêsa Calcutta, rộng lòng giúp đỡ họ?
Học giả Thornton Wilder trình bày một hướng nhìn đau khổ qua hình ảnh một bức tranh thêu mỹ thuật. Theo ông, đau khổ là những diễn tiến cần phải có để xây dựng một cuộc sống đại đồng tốt lành. Ông giải thích, hãy nhìn mặt sau của bức tranh thêu, người ta chỉ thấy chằng chịt những nút thắt, những sợi chỉ ngắn, sợi chỉ dài, màu sắc hỗn độn vô nghĩa. Nhưng ở mặt trước nó là bức tranh hoàn mỹ. Thiên Chúa đã xếp đặt có những cảnh đời bị ngắn cụt, bị thắt nút, bị đâm xiên … nhưng đó là những điều kiện phải có để phục vụ cho sự toàn vẹn của một bức tranh sống tốt đẹp.
Lý luận này rất bấp bênh về nguyên lý. Vô hình trung nó chấp nhận nguyên tắc “mục đích biện minh cho phương tiện”. Vì nhắm vào mục đích tốt Thượng Đế đã dùng phương tiện xấu đối với một số người. Có lẽ cũng chưa có ai nhìn thấy bức tranh thêu đẹp đẽ xây dựng trên những mảnh đời của người tàn phế và trên thân xác của những nạn nhân chiến tranh. Chẳng lẽ Thiên Chúa tạo ra một xã hội đẹp bằng cái giá sinh mạng của những người cô thế vô tội.
Củng tương tự như quan điểm bức tranh thuê, có niềm tin cho rằng Thiên Chúa gửi đến những đau khổ vì Người nhắm tới một mục đích tốt lành lớn hơn. Vì vậy không có bất cứ sự đau khổ nào mà không có ý nghĩa tốt nằm bên trong. Điều này giống như kẻ u minh, thấy bệnh nhân bị trói vào giường, bị đánh thuốc mê, bị chụp miệng bằng ống dưỡng khí, rồi có vài người xung quanh cầm dao mổ xẻ người bệnh đó, họ tin là người nằm trên giường đang bị hành hạ. Họ không hiểu nhờ chịu cơn đau đớn ấy mà nạn nhân được cứu lành. Tất cả những gì xảy ra, dù đau khổ, đều hướng về mục đích tối hậu là tốt lành.
Có những đau khổ có ý nghĩa như đau đẻ, như giải phẫu chữa bệnh, nhưng cũng có những đau khổ vô nghĩa như thiếu ăn chết đói. Con người vui lòng chịu những đau khổ có ý nghĩa để đạt mục đích tốt nhưng không muốn có những đau khổ vô nghĩa. Khó có thể bảo một em bé tật nguyền rằng Thiên Chúa có thể chữa lành, nhưng Người không làm vì đó là cách thế tốt nhất Người chọn cho em. Nếu có người nói, tôi không thể giải thích tại sao Đức Quốc Xã đã gây ra cuộc tàn sát Do Thái, nhưng tôi tin Thiên Chúa đã dùng Hitler với một mục đích lớn. Chắc chắn những người tù bị hành hạ ngày đêm trong trại Auschwitz đối diện với lò Holocaust không thể tin được điều đó. Niềm tin “hướng tới mục đích lớn”, cũng giống như niềm tin “bức tranh thêu”, chúng có vẻ như cố gắng bào chữa cho Thiên Chúa hơn là giải thích đau khổ và an ủi những nạn nhân của đau khổ.
Thánh Augustine nhận định rằng không có sự kiện xấu, tức nguyên nhân của đau khổ, mà chỉ có sự tốt lành. Ở đâu có tình trạng xấu chỉ vì ở đó thiếu sự tốt lành. Không có bóng tối mà chỉ có ánh sáng. Nơi nào có bóng tối chỉ vì nơi đó vắng bóng ánh sáng. Đối với lý luận cho rằng Thiên Chúa tạo ra vạn vật, nên sự dữ cũng do Thiên Chúa tạo ra, thánh Augustine giải nghĩa: nếu sự dữ là một tạo vật (thing), chúng ta có thể nói sự dữ do Thiên Chúa tạo ra. Nhưng sự dữ chỉ là tình trạng vắng bóng sự thiện, do đó mà có đau khổ. Thánh Augustine đi đến kết luận đau khổ là hậu quả của sự tự do khi con người chối bỏ sự tốt lành.
Lý luận của nền thần học kinh viện trên đã phủ nhận thực tại của đau khổ. Có thể chúng ta không hiểu được tại sao có đau khổ nhưng chúng ta biết đau khổ là thế nào. Câu truyện của Job, thời Cựu Ước, và câu truyện người mù từ bẩm sinh, thời Tân Ước, chúng ta không thấy có liên hệ gì giữa sự vắng bóng sự thiện với những đau khổ mà hai người đó đang chịu.
Như chúng ta đã thấy, tất cả những quan niệm trên, một số bắt nguồn từ niềm tin dân gian rồi được lồng vào Kitô giáo, một số là những suy tư triết học trong lý luận trí thức mà thôi. Theo Công Giáo, đau khổ là một thực tại, nhưng ý nghĩa của nó là một huyền nhiệm vượt trên tất cả những khái niệm và học thuyết (GL 309). Đau khổ là một huyền nhiệm vì con người sống với nó, hít thở trong nó, không thể tách rời nó, nhưng không thể hiểu rõ về nó. Chúng ta có thể lấy truyện ông Job trong thời Cựu Ước làm điểm tựa để nhìn về vấn đề này. Ông Job là một người rất mực nhân đức và giàu có. Bỗng nhiên, ông rơi vào hoàn cảnh cùng cực đau thương. Những cơn bất hạnh cứ lần lượt xảy đến với ông. Các con của ông đều chết thảm, rồi gia tài bị mất hết. Cuối cùng ông trở thành kẻ vô gia cư. Chưa hết, thân xác ông còn bị bệnh tật đến da thịt lở lói. Bà vợ và ba người bạn của ông thường xuyên lớn tiếng kết án ông. Theo họ, chỉ có kẻ xấu mới bị Thiên Chúa trừng phạt như vậy. Trong cơn tuyệt vọng, Job nguyền rủa sự ra đời của mình. Ông đặt vấn đề với Chúa tại sao sinh ra ông và tạo ra đau khổ.
Thiên Chúa hiện ra, Người trả lời Job bằng một câu hỏi, “Ngươi ở đâu khi ta đặt nền móng cho trái đất? Nói đi, nếu sự hiểu biết của ngươi được thấu đáo” (Job 38:4-7). Câu trả lời của Thiên Chúa không phải giải thích thẳng vào vấn đề đau khổ mà đưa ra một hình ảnh của huyền nhiệm. Con người có thể sống, nhưng con người không thể hiểu được mọi thứ của cuộc sống. Rồi Thiên Chúa nói với ba người bạn của ông Job, “Các ngươi đã không nói đứng đắn về Ta như Job, tôi tớ của Ta” (Job 42:7). Job được Thiên Chúa khen là đứng đắn, mặc dù ngôn ngữ của ông là lời oán trách, nhưng chúng biểu lộ sự sống thật với nỗi đau khổ. Ba người bạn của ông bị khiển trách vì đã máy móc giải thích Ý Chúa theo triết lý hay giáo điều chứ không có lòng thương cảm. Có thể nói họ là đại diện cho những quan điểm về đau khổ như đã nói ở trên và họ cũng như nhóm đả kích mẹ Teresa Calcuta.
Mặc dù trong nhiều trường hợp đau khổ mà người ta có thể dễ dàng giải thích về nó, nhưng họ mới chỉ nói tới bề mặt của nó. Bản chất chìm sâu của nó vẫn là sự huyền nhiệm. Mới đây, vào đầu tháng 12, năm 2015, tại tỉnh San Bernardino, California, cặp vợ chồng Syed Rizwan Faeook và Tashfeen Malik xả súng bắn chết 14 người và gây thương tích cho 22 người. Người ta có thể đứng trên quan điểm nào đó để giải thích sự kiện này, chẳng hạn quan niệm về ý chí tự do trong sự lựa chọn thiện dữ (còn gọi là tự do luân lý -- freedom of morality). Nhưng ai có thể giải thích lý do nào mà 36 nạn nhân lại có mặt ở ngay lúc đó, chỗ đứng của họ lại vừa tầm làm cái đích cho những viên đạn. Không lời giải thích nào có thể hoàn toàn đúng.
Chúng ta hãy khách quan nhìn vào bản chất của sự đau khổ. Có hai loại đau khổ. Đau khổ đến từ thiên nhiên như thiên tai, bệnh hoạn, và đau khổ do con người gây ra như chiến tranh, tội ác.
Đối với thiên tai chúng không mang tính chất xấu. Giáo Lý Công Giáo dạy rằng Thiên Chúa tạo ra một vũ trụ “trong tình trạng lên đường” hướng về hoàn hảo. Vì vậy có những vật xây đắp xuất hiện và cũng có những vật bị tàn phá mất đi (GL 310). Đó là chức năng tự nhiên của sự tiến hóa. Nhưng khi thiên tai xảy ra nơi có dân cư sinh sống, nó bị gán cho là sự dữ, bởi vì con người không muốn chấp nhận đau khổ. Sự thật thiên tai không có nhân tính. Nó vận chuyển năng lượng theo luật vật lý một cách máy móc mà thôi.
Nhưng không hẳn là con người vô tội về vấn đề này. Giới khoa học minh xác chính con người đã làm ô nhiễm bầu khí quyển, làm thủng lớp ozone, khiến nhiệt độ trái đất tăng lên và thiên tai xảy ra. Nhiệt độ tăng còn làm nước biển tăng, khiến một số quốc gia sẽ bị nhận chìm dưới nước.(3) Đó là lỗi của con người. Con người không thể đổ rác đầy nhà, rồi khi căn nhà bị hư thối, con người trách móc Thiên Chúa không tới dọn rác cho mình.
Theo Công Giáo, không kể những trường hợp đau khổ có tính cách cục bộ do chính mình tạo ra, nói chung con người phải sống trong những hoàn cảnh bất dịch như đau khổ và sự chết mà con người chưa hoàn toàn thấu hiểu. Vì vậy, vấn đề chính không phải lý lẽ giải thích đau khổ, nhưng là cách đón nhận sự đau khổ. Với thắc mắc như, “tại sao sự xấu lại xảy đến cho người tốt” là một câu hỏi sai lạc trên nguyên lý, vì tiền đề của nó đã giả định “nạn nhân” là người tốt. Lấy tiêu chuẩn nào để định giá người này tốt người kia xấu. Trong ánh sáng của Kitô giáo, tất cả mọi người đều là những kẻ sa ngã, đầy dục vọng, tội lỗi, và sống trong một thế giới bất toàn (1Gio 1:5-10). Đau khổ là một thực tại của đời sống, nó đến với bất cứ ai, người tốt cũng như kẻ xấu. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã thay thế câu hỏi, “Tại sao tôi phải chịu đau khổ?” bằng câu, “Tại sao không phải là tôi?” Thánh nói tiếp, “Đúng vậy, tôi bị đau khổ rất nhiều, nhưng tôi có chịu đựng tốt hay không, đó mới là vấn đề.”
Công Giáo đi sâu vào tận cùng sự đổ nát của những hoàn cảnh đau khổ để tìm ra những giá trị tiềm năng của chúng. Điều này chỉ có thể xảy ra khi con người chấp nhận đau khổ trong tâm tình kết hợp với Thiên Chúa. Thiên Chúa không can thiệp vào những hành xử gây ra đau khổ, nhưng Người nâng đỡ những nạn nhân đau khổ để hoán chuyển đau khổ của họ thành kết quả tốt. Thánh Kinh tường thuật truyện ông Joseph, con ông Jacob, bị các anh hãm hại bán làm nô lệ, rồi bị đày qua xứ Ai Cập. Thiên Chúa đã chuyển hóa sự kiện xấu đó thành sự kiện tốt. Vì nhờ qua Ai Cập mà Joseph cứu được dân Do Thái trong thời kỳ hạn hán. Gần đây trước trận bão sóng thần làm bao nhiêu kẻ vô tội bị chết, những người hoài nghi đặt câu hỏi, “Thiên Chúa ở đâu?” Giám Mục José H. Gomez, Los Angeles, trả lời, “Thiên Chúa ở nơi những nạn nhân đau khổ, và ở nơi những người đang giúp đỡ những nạn nhân đó.” Câu trả lời đã giải phóng con người khỏi sự trói buộc của những thắc mắc không lối thoát và giúp con người chuyển hóa đau khổ bằng cách mở rộng trái tim nâng đỡ nhau thăng tiến xây dựng Nước Chúa.
Giáo lý Công Giáo cũng dạy rằng, tín hữu Kitô chịu đau khổ để thông phần đau khổ với cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, không phải chỉ để có đau khổ suông, nhưng là cộng tác với Chúa Giêsu trong chương trình cứu độ. Thánh Phaolô giảng nghĩa, “Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào Thập giá” (Gal 2 :19 ). “Tôi vui mừng chịu đau khổ để đền bù vào những thiếu sót nơi các nỗi quẫn bách Đức Ki-tô phải chịu nơi Thân Mình Người, tức Hội Thánh” (Col 1,24). Đức Giêsu cũng nói, “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, hãy vác lấy khổ giá của mình mà theo Ta” (Mat 16:24). Như vậy chịu đau khổ cũng là cách tôn vinh Thiên Chúa, bởi vì “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ”(Mat 5:10).
Tóm lại, đau khổ không thể giản lược như một ý niệm trừu tượng, một học thuyết, để có thể đưa ra bất cứ lời giải thích nào cho trọn vẹn. Con người chỉ đẩy đưa vấn đề qua lại trong vòng lý luận mà thôi (4). Đau khổ là một thực tại và những nạn nhân đau khổ là những con người thật sự. Chính Đức Giêsu đã chịu cuộc đau khổ đến phải tử nạn. Nhưng sau khi Chúa Kitô phục sinh, Kitô hữu chúng ta có thể nhìn đau khổ với một ý nghĩa mới. Thiên Chúa không tránh né đau khổ, Người chia sẻ đau khổ với những nạn nhân đau khổ, rồi cuối cùng Người chuyển hóa đau khổ thành sự lành (GL 324). Vì vậy con người cũng có thể đi vào mầu nhiệm của ơn cứu độ bằng cách liên kết nỗi đau khổ hiện tại với sự sống đời sau, và cuộc tử nạn của Đức Giêsu. Chúng ta chấp nhận đau khổ như phương cách tự hiến để thông hiệp với nỗi đau khổ của Chúa Giêsu. Đó là lý do các thánh tử đạo hoan hỉ lãnh nhận đau khổ. Họ cũng như Thiên Chúa đã biểu lộ món quà cao đẹp nhất là hy sinh mạng sống cho người mình yêu. Vì chấp nhận đau khổ nên Công Giáo không chấp nhận những phương pháp trốn tránh đau khổ như trợ giúp an tử, phá thai, tự tử… vì chúng ta không thể hy sinh tính mạng để tránh né cơn đau đớn. Nếu Kitô hữu chúng ta nghi ngờ sự tốt lành của Thiên Chúa có thể chuyển hóa sự đau khổ thành lợi ích, những nỗi đau khổ của chúng ta sẽ chỉ là những nỗi uất hận cay đắng và vô nghĩa.