Trong thánh lễ, tín hữu Công Giáo chúc nhau “bình an ở cùng anh/chị/em”. Kèm với lời chúc là những cử chỉ thân mật như bắt tay, ôm vai, hôn nhau, áp má, cúi đầu, vẫy tay, “high five”, v.v... Những cử chỉ xã giao đuợc biểu lộ quá rõ, nên nhiều người đã nghĩ lời “chúc bình an” chỉ là một hành vi lịch sự chào hỏi nhau. Họ cho rằng tuy lời chúc “bình an” có dạng cổ điển nhưng ý chính của nó cũng đồng dạng với cách biểu lộ đương thời là “xin chào” (hello) hay “ông/bà khỏe không” (how are you). Nhiều Kitô hữu khác đón nhận lời chúc bình an như một nghi thức chào hỏi theo truyền thống Do Thái. Vô tình mọi người đã tục hóa nghi thức chúc lành và chỉ thấy nó trong phạm trù văn hóa.
Bên ngoài Giáo Hội, những người vô thần lên tiếng đả kích lời chúc bình an. Họ lý luận rằng người ta chỉ có thể cho đi những gì người đó có. Nếu không có thì lấy gì mà cho. Vậy khi vị linh mục, hay một tín đồ, đang sống trong hoàn cảnh hỗn loạn, tâm hồn bất an, không thể cho người khác sự bình an. Vì lời chúc “bình an” không có thực chất, nên nó vô nghĩa. Vì nó lập lại một cách máy móc công thức xã giao của người Do Thái xưa, nên nó không có giá trị tâm linh.
Những nhận định trên đều sai lầm. Nếu là lời chào hỏi, dù là theo cổ tục, nó phải được bày tỏ khi mọi người mới gặp nhau, tức là lúc mở đầu thánh lễ. Trong khi đó lời chúc bình an lại cử hành ở giữa thánh lễ, sau khi linh mục làm phép Thánh Thể. Lời chúc bình an không phải là một hành xử giao tiếp hay là một biểu tượng gợi ý tâm linh. Nó là một nghi thức phụng vụ không thể thiếu trong thánh lễ.
Bản chất tinh tuyền của lời chúc bình là sức mạnh tâm linh, vì nó bắt nguồn từ Thánh Ý của Chúa Giêsu. Khi Chúa Giêsu phục sinh, Người đến với các Tông Đồ và nói, “Bình an ở cùng các con.” (Luc 24:36; Gio 20:19, 21, 26 ) Bắt đầu từ căn gốc này, vị linh mục chủ tế xướng lên: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã nói với các Tông Đồ rằng ‘Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban bình an của Thầy cho các con’. Xin đừng chấp tội chúng con, nhưng xin nhìn đến đức tin của hội thánh mà ban cho Hội Thánh được bình an.” Rồi linh mục chúc bình an cho cộng đoàn: “Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em”. Sau đó linh mục chủ tế mời gọi cộng đoàn: “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau.” Bấy giờ giáo hữu mới trao đổi lời chúc bình an cho nhau với những cách biểu lộ đã nêu ra ở trên.
Thật thế mọi người đều là những kẻ tội lỗi trước mặt Thiên Chúa. Chỉ có nhờ đức tin làm đẹp lòng Thiên Chúa mà con người được ơn trở nên công chính. Như vậy Thiên Chúa đã hòa giải thế gian qua Đức Kitô và đã trao chức vụ hòa giải cho linh mục chủ tế và cho cộng đòan (2 Cor 5:19). Kitô hữu chúng ta lập lại đúng như lời chúc bình an của Đức Giêsu đã truyền dạy. Chúng ta chúc bình an cho nhau trong nối kết với lời Chúa Giêsu. Ơn bình an ở đây không phải từ công đức của vị linh mục hay từ lòng tốt của chúng ta mà có, nhưng bởi ý muốn của Thiên Chúa. Ý muốn của Thiên Chúa là chân lý. Chúng ta tiếp nhận ý muốn của Thiên Chúa mà thi hành lời chúc trong đức tin. Vì vậy lời chúc bình an không phải là một khái niệm nhưng có thực chất tái tạo sức mạnh tâm linh.
Khi chúc bình an cho nhau chúng ta thường kèm theo những cách biểu lộ tùy theo sắc thái văn hóa vì Thiên Chúa không đến để hủy bỏ văn hóa. Những cử chỉ khác nhau như cúi đầu, bắt tay… đều đồng nhất biểu lộ mối kết hợp giữa người và người qua trung gian của sự đụng chạm, ngôn ngữ, trí tuệ, và đức tin.
“Bình an” có gốc từ tiếng Hebrew là Shalom. Shalom là tiếng đa nghĩa. Theo các nhà ngôn ngữ học, shalom biểu hiệu cho một chuỗi những giá trị gồm có: hoà bình trong thân thiện với người, trong hòa giải với Thiên Chúa, có đời sống an lành, nhiều phúc lợi và hạnh phúc. Nói ngắn gọn shalom có nghĩa rốt ráo là sự sống viên mãn (to be complete) hay hoàn hảo (well-being).1
Như vậy shalom là một ý niệm phản ảnh những mong ước cơ bản về cuộc sinh tồn và ơn phúc của con người. Nó biểu lộ phẩm tính nhân bản qua ngôn ngữ. Từ shalom được Đức Giêsu dùng không đối lập với những giá trị trần thế, vì Lời Chúa không hiện hữu độc lập với những thực tại trần thế. Đức Giêsu đã nương vào lòng mong ước đó của con người để mở ra những mạc khải về ơn cứu độ. Đức Giêsu đã nói rõ, “Ta ban bình an của Ta cho các con; bình an của Ta không phải như của thế gian trao ban. Lòng các ngươi chớ xao xuyến, sợ hãi.” (Gio 14:27) Có hai điều chúng ta nhận ra trong câu nói này. Thứ nhất, ơn bình an của Chúa Giêsu không phải là ơn dẹp tan những cảnh bất an trần thế. Cảnh ngộ khó khăn nơi thế gian vẫn còn nguyên. Thứ hai, cá nhân hãy can đảm đón nhận nó với tâm hồn bình an trong niềm tin vào Thiên Chúa. Quả thật sau khi nhận ơn bình an, các Tông Đồ đã hết sợ giới chức sắc Do Thái giáo bách hại họ. Họ đã mạnh dạn chỗi dậy đi rao giảng Tin Mừng.
Chúa Giêsu muốn chúng ta vươn lên, từ tâm bình an nơi trần thế, hướng tới Đấng sẽ ban cho chúng ta cõi bình an vĩnh cửu. Trên thực tế con người thường thất bại trong sự vươn lên này. Đã có lần Đức Giêsu làm phép bánh và cá để nuôi ăn năm ngàn người. Những người ấy sau đó đi tìm Đức Giêsu để tôn xưng Người làm lãnh tụ. Đức Giêsu nói với họ: “Các ngươi tìm Ta vì được ăn uống no nê chứ không phải vì đã thấy những dấu chỉ… Các ngươi hãy tìm thức ăn mang lại sự sống vinh cửu từ Thiên Chúa.” (Gio 6:24-35) Đa số chúng ta cũng đi tìm sự bình an trong no đủ, rồi bị đóng cứng trong hiện tượng, chúng ta thường không nhận ra “dấu chỉ” của lời chúc bình an.
Bởi vì Kitô hữu chúng ta không thể tách rời và tự cô lập trong một thế giới mà Thiên Chúa không bao giờ sống tách rời, nên chúng ta không thể đối xử xa lạ với nhau. (1 Cor 16:33) Bởi vì chúng ta đang cùng nhau chờ đợi ngày Chúa Giêsu đến lần thứ hai, nên chúng ta phải chờ đợi trong bình an. Bởi vì Thiên Chúa không phải là Đấng chia rẽ nhưng là Thiên Chúa của hòa bình, nên chính trong giây phút Kitô hữu chúc bình an cho nhau là điểm thức tỉnh để chúng ta biểu lộ tấm lòng yêu thương nhau.
Thánh Thomas Aquinas, trong bộ Summa Theologica (Tổng luận thần học), chương 2, câu hỏi 29, đã làm sáng tỏ thêm đặc tính của bình an. Theo Thánh Thomas, bình an không đơn giản là sự hòa thuận (concord). Hòa thuận là kết quả của ý chí khi nhiều người đồng ý với nhau về một vấn đề nào đó. Tuy nhiên điều này chưa bảo đảm rằng họ không phải là những kẻ gian ác tội lỗi và lòng đầy tham vọng. Những kẻ dữ cũng có thể liên kết hòa thuận với nhau thành một nhóm cho một mục đích nào đó.
Bình an cũng không đơn giản là hòa bình. Hòa bình, một cách gián tiếp, là “công trình của công lý” nhằm loại bỏ những cản trở phá hoại nền trật tự chung. Thánh Augustine nói, bất cứ hình thức hòa bình nào cũng chỉ là một giao ước thông qua sự ràng buộc của luật lệ . Hai bên tôn trọng nhau vì lợi ích chung. Như vậy hòa bình là một giao ước đặt trên nền tảng sợ hãi đối nghịch nhau. Nếu hòa bình chỉ là sự yên tĩnh do trật tự mang lại, nó không thật sự là bình an, vì trật tự này có thể bị vi phạm bất cứ lúc nào.
Về mặt cá nhân, một người hòa thuận với người khác trong giao ước không thể hiện diện như một người trọn vẹn về chính mình. Cá nhân đó phải hy sinh những phần nào đó thuộc về mình. Không thể có hòa bình nơi người mà chính tâm người đó chưa bình an. Nếu anh ta ép mình để có hòa bình với người khác thì anh ta không có hòa bình với chính mình.
Tuy nhiên nơi nào có bình an nơi đó ắt có hoà thuận và hòa bình, vì bình an bao gồm cả hòa thuận lẫn hòa bình. Bởi vì bình an không tạo ra bởi luật lệ hay giao ước nhưng bằng tình yêu. Bản chất của tình yêu là sức mạnh hiệp nhất mọi khuynh hướng và tạo nên sự bình an. Chúng ta chỉ có thể thực hiện được điều này nhờ ơn của Thiên Chúa. Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của sự phân hóa mà là Thiên Chúa của bình an. (1 Cor 16:33) Nếu không có ơn Chúa thánh hóa, bình an sẽ không có thật mà chỉ là hình bóng của sự bình an.
Bình an là ơn của Thiên Chúa, nhưng không thể hiểu, một cách thụ động, như một mâm cỗ dọn sẵn cho những đầy tớ bất xứng hưởng thụ. (Luc 17:7-10) Chúng ta tốt hơn nên hiểu rõ lời phán nghiêm khắc của Đức Giêsu, “Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để ném lửa vào mặt đất” (Luc 12:49). Lửa là sự thanh tẩy. Lửa thanh tẩy là Phúc Âm và tác động của Thần Khí. Phúc Âm và Thần Khí thanh tẩy những con người phân hóa cũ thành những con người bình an mới. Như vậy trước hết chúng ta phải tự thanh lọc mình rồi mới có sự bình an nơi mình. Rõ ràng hơn, khi Đức Giêsu truyền cho các Tông Đồ đi rao giảng Phúc Âm, Người nói, “Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: ‘Bình an cho nhà này’. Nếu họ xứng đáng thì bình an sẽ ở trong họ, bằng không bình an sẽ trở lại với các con.” (Luc 10:5-6) Cũng tương tự, thiên thần đã hát trong đêm Chúa Giáng Sinh: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm.” Chúng ta có thể hiểu “bình an” là ý định của Thiên Chúa muốn phục hồi thế giới, nhưng bình an chỉ có nơi những ai có lòng công chính. Vì vậy bình an phải bắt đầu từ sự thanh tẩy trong tâm hồn của mỗi cá nhân. Đó là luật của Thiên Chúa.
Lời chúc bình an trong thánh lễ không thể hiểu đơn sơ như là một nghi thức tái tạo lại ơn thánh dựa vào lời chúc bình an của Đức Giêsu. Nghi thức này chỉ nối kết Kitô hữu một cách siêu việt với một biến cố có thật với Chúa Giêsu. Từ đó con người có thể hiểu được rằng mình sẽ bình an hóa nhờ hòa nhập với một biến cố lịch sử. Nhưng trước hết con người phải xứng đáng mới nhận được.
Và rồi con người không thể lập lại mầu nhiệm này một mình, như một cá nhân độc lập, nhưng phải bằng cách nối kết với cộng đồng. Chính trong lòng cộng đoàn, cá nhân mới được công chính hóa. Bởi vì chúng ta đang hiện diện trong hai thực tại: thực tại của đức hạnh cá nhân và thực tại siêu việt của Thiên Chúa. Về đức hạnh cá nhân, thánh Phaolô đã nêu rõ, “Anh em hãy khuyến khích nhau, đồng tâm nhất trí, sống hòa thuận với nhau, tình yêu của Thiên Chúa và sự bình an sẽ đến với anh em.” (2 Cor 13:11) Về thực tại siêu việt, Thiên Chúa là Đấng ban sự bình an, (Ds 6:26) ơn này đang hoạt động tại đây nhưng chỉ thực sự viên mãn lúc Chúa Giêsu đến lần thứ hai. Trong thời gian chờ đợi chúng ta giúp đỡ nhau gìn giữ tâm bình an, vì chúng ta cùng là chi thể của Chúa Giêsu.