Chúa của chúng ta có hai bản tính: Thiên Tính và nhân tính. Cả hai đều bị xét xử với những bản án hoàn toàn khác biệt. Đó là để nên trọn lời tiên tri Simêon nói rằng Người là “nguyên cớ xúc phạm cho nhiều người.” Những người xét xử đã không đồng ý được với nhau về lý do tại sao Người phải chết; họ chỉ có thể đồng lòng là Người phải chết. Những người xét xử theo tôn giáo như Annas và Caipha, buộc tội Người đã qúa đáng xưng mình là Thiên Chúa; những người xét xử thuộc chính trị, Philatô và Hêrôđê, coi Người qúa tham vọng trần thế. Trước mắt một người thì Người vượt qúa trần gian; trước mắt người khác thì Người lại qúa thế tục; trước mắt một người thì Người qúa cao siêu; trước mắt một người khác thì Người lại qúa trần thế. Từ hôm đó, Giáo Hội của Người cũng bị lên án bởi những án lệnh khác nhau, một là bị coi là qúa thiêng liêng, hay đối với một số người khác thì lại bị coi là qúa trần tục. Bị kết án bởi những án lệnh khác nhau, Người đã bị kết tội bởi dấu mâu thuẫn, đó là Cây Thập Giá.
Nếu Chúa chúng ta đã bị bắt ở đền thờ hay bị ném đá trong những trường hợp khi những kẻ thù ghét Người muốn thực hiện, thì những lời tiên tri đã nói về Người là lễ hiến tế như Con Chiên của Thiên Chúa đã không được nên trọn. Trước đó, những người Pharisiêu nói cho Người biết là Hêrôđê muốn giết Người, Chúa đã bảo với họ rằng Người sẽ không chịu chết ở Galilêa, nhưng ở Giêrusalem. Hơn nữa, Người bảo họ rằng không một ai có thể lấy đi mạng sống của Người; chính Người sẽ tự trao hiến mình. Nhưng lúc ở trong vườn, khi:
Các môn đệ bỏ Người và chạy trốn hết. (Mt 26:56)
Người đã nói với các tư tế:
Đây là giờ của các ông – giờ của sự tối tăm. (Lc 22:53)
Người có ý nói rằng, khi Người giảng dạy công khai, rảo bước khắp miền Giuđa và Galilêa, không ai có thể làm gì được Người hoặc họ đã không thành công trong ý đồ xô đẩy Người từ trên mỏm đá ở Nazareth. Nhưng sự dữ có giờ của nó, giờ mà Người thường hay nhắc đến. Trong Giờ đó, Thiên Chúa cho phép quyền lực sự dữ chiến thắng trong chốc lát khiến những kẻ mù tối trong tinh thần cứ tưởng rằng chúng đã chiến thắng. Cánh tay của những kẻ ác bị trói buộc cho đến khi Thiên Chúa cho phép chúng hành động, chúng chẳng có thể làm được gì nữa khi Thiên Chúa truyền cho chúng phải ngưng. Cánh tay của quyền lực tối tăm đã không thể đụng đến tài sản của ông Giop hay con người của ông cho đến khi Thiên Chúa cho phép chúng; chúng cũng chẳng cản ngăn tài sản của ông được phục hồi khi Thiên Chúa muốn. Bởi thế, trong Giờ này, sự tối tăm có quyền mà nó lại trở nên bất lực trong giờ Người Phục Sinh.
Quân lính trói Người lại và điệu đi. Có lẽ một trong những lý do làm thế là vì Giuđa đã yêu cầu trói giữ Người. Thêm nữa, cách mà Đức Kitô chịu khổ nạn đã được báo trước nơi I-sa-ac khi Abraham, chuẩn bị dâng con cho Thiên Chúa như của lễ hiến tế, đã ngụ ý trói giữ như thế:
Ông đã trói con là I-sa-ac (STK 22:9)
Và Người đã bị điệu đi; Người không bị xô đẩy hay kéo lôi bởi vì Người tự ý nộp mình. Như I-sa-i-a đã tiên báo, Người bị điệu đi như con chiên bị đem đi sát tế. Như Giêrêmia mới, Con Người của Đau Khổ, Người bị xiềng xích vì Lời Chứng cho Chân lý.
Con đường đưa Người đi dọc theo con suối của vùng Cedron, qua “Cổng Chiên” gần đền thờ mà qua chỗ đó những con vật hiến tế đi qua. Trước tiên Người được dẫn đến trước Annas, bố vợ của Cai-pha, vị thượng tế năm đó. Dưới quyền cai trị của người Roma thì có lẽ vị thượng tế là người được tuyển chọn hằng năm; tuy vậy, Annas là nhân vật quan trọng vào thời điểm đó, mặc dù Caipha là người lãnh đạo trong toà thượng thẩm.
Cả hai nhân vật đại diện trong lãnh vực tôn giáo, cuộc xét xử thứ nhất theo lý do tôn giáo. Annas có năm người con trai, và chúng ta biết được từ một nguồn khác nữa là họ có những gian hàng trong đền thờ và trong số những người buôn bán đổi tiền bị Chúa đánh và xua đuổi ra khỏi đền thờ. Từ nhà Annas, Đức Kitô được dẫn đến nhà Caipha. Luật Cựu ước đòi mỗi con vật hiến tế cho tội lỗi của con người phải được đưa đến trước vị linh mục. Do đó, Đức Kitô, vị đại diện cho chức linh mục của Thánh Linh, được dẫn đến trước Caipha, vị đại diện cho linh mục của xác phàm. Đó cũng chính là Caiphai người đã nói:
Để một người chết thay cho dân thì hơn. (Ga 18:14)
Hiển nhiên là ông và Tòa Thượng Thẩm đã quyết định về cái chết của Đức Kitô trước khi xét xử Người. Cuộc xét xử trong đêm tối là phi pháp, nhưng trong ý đồ điên cuồng muốn thủ tiêu Đức Kitô, điều đó vẫn được thực hiện. Cho dù họ không có quyền thi hành án tử hình, họ vẫn có quyền xét xử. Khi cuộc xét xử bắt đầu:
Vị thượng tế tra hỏi Đức Giê-su về các môn đệ và giáo huấn của Người. (Ga 18:19)
Vì Caipha đã quyết định là Chúa phải chết, ông không muốn biết gì hơn nữa; ông chỉ muốn tìm lý do cho kế hoạch bất chính đó mà thôi. Câu hỏi đầu tiên là về tổ chức của Đức Kitô và các môn đệ của Người, những người mà Toà Thượng Thẩm sợ như một mối đe dọa cho chính họ; vì trước đó nhóm Pharisiêu đã tường trình:
"Các ông thấy chưa: các ông chẳng làm nên trò trống gì cả! Kìa thiên hạ theo ông ấy hết!" (Ga 12:19)
Người xét xử không mấy quan tâm đến danh tánh của những người theo Đức Kitô cho bằng con số những người tin theo Người; mục đích của cuộc tra hỏi này là để lấy được câu trả lời phù hợp cho án lệnh có sẵn của họ. Tra hỏi về giáo thuyết của Người là để tìm xem có phải Người là lãnh đạo của nhóm bí mật hay có phải là Người giảng dạy điều khác lạ hoặc phản giáo.
Chúa của chúng ta nhìn thấy ý đồ của họ đàng sau các câu tra vấn, và hoàn toàn không khiếp sợ, vô tội từ bẩm sinh, đã trả lời họ rằng giáo thuyết của Người được mọi người biết và những người đã nghe Người giảng dạy có thể làm chứng về điều đó. Người chẳng có gì để che dấu, cũng chẳng có gì gọi là mật khẩu, chẳng có giáo thuyết riêng cho một nhóm nhỏ nào. Chẳng có gì bí mật về giáo lý của Người; bất cứ ai cũng nghe được, vì Người giảng dạy công khai.
"Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ; tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Đền Thờ, nơi mọi người Do-thái tụ họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. Sao ông lại hỏi tôi? Điều tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì." (Ga 18:20-21)
Đức Kitô đã nói cho toàn thế giới, cũng như cho những người Do Thái. Người không bào chữa cho mình; ai cũng biết điều Người giảng dạy. Caipha chỉ Giả đò không biết đó là điều ai cũng biết như vậy. Không thế mà Tòa Thượng Thẩm đã chẳng phạt vạ loại trừ những người tin vào Đức Kitô ra khỏi hội đường của họ đó sao? Trong khiêm tốn, Người đã không nại đến việc tìm hỏi những người câm, người què, người mù lòa và những người phong hủi, nhưng chỉ nói là những người đã nghe Người. Những người lãnh đạo của đền thờ đã từ lâu quay lưng lại đối với dân; bây giờ Người thách họ hỏi những người mà họ đã coi khinh. Người đã đặt giáo thuyết của Người và những người tin theo Người chống lại sự phân cách trịch thượng giữa trách nhiệm của lãnh đạo và dân chúng. Đó là sự chứng nhận đầu tiên thuộc Kitô giáo theo quan điểm của con người đường phố. Do đó để trả lời cho câu hỏi đôi đàng của họ, Người trả lời điều thứ nhất là hỏi những người dân thường; và thứ hai là cuốn sách về giáo lý của Người không bao giờ khép lại; nó luôn luôn để mở cho mọi người xem.
Khi Chúa trả lời như thế thì một trong những người ở đó đã giơ tay đánh Người và nói:
Anh trả lời vị thượng tế như thế ư? (Ga 18:22)
Liệu đó có phải là tay của Malchus, người đã được Chúa Cứu Thế chữa lành cái tai bị chém khoảng hơn kém một giờ trước đó không? Đúng hay không thì đó là cái tát đầu tiên chống lại Thân Thể của Đấng Cứu Thế – cái tát không bị các thẩm phán khiển trách. Caipha và tòa thượng thẩm đã đặt Đức Kitô ngoài vòng pháp luật. Để tránh né nội dung của thông điệp, người lính đã phê phán hình thức của nó – một phản ứng thường thấy đối với tôn giáo. Những người không thể phê bình được Đức Kitô đã quay sang dùng bạo lực. Họ đã ghép tội cho Người là phản động. Rất mực hiền lành, Chúa đã trả lời:
Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh đánh tôi? (Ga 18:23)
Chỉ một hơi thở, Chúa của chúng ta cũng có thể thổi bay kẻ xúc phạm đến Người vào cõi đời đời, nhưng Người chịu bị đánh vì những xúc phạm của con người và bị dập thương vì những bất công của họ, Người bằng lòng đón nhận cái tát tiên khởi trong nhẫn nhục. Nhưng đồng thời Người cũng thách thức anh ta chứng minh, nếu có thể, lý do hành động bạo lực của anh đối với Người. Đã có lần Chúa nói với chúng ta rằng khi bị tát mà này thì chúng ta phải đưa cả má bên kia nữa. Phải vậy không? Đúng thế! Người đã đưa toàn thân để chịu đóng đinh.
Không có lý do để kết tội Người do những phát ngôn từ giáo lý của Người hay do các môn đệ của Người, bây giờ họ hy vọng kết tội được Người từ những chứng cớ gian dối:
Còn các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức Giê-su để lên án tử hình. Nhưng họ tìm không ra, mặc dầu có nhiều kẻ đã đứng ra làm chứng gian. (Mt 26:59)
Vội mong kết án tử hình cho Người hơn là xét xử công minh, họ đã hiệu triệu những người làm chứng gian mâu thuẫn với nhau. Sau cùng thì hai người ra làm chứng trái ngược nhau. Một người trích dẫn lời Người:
Chúng tôi có nghe ông ấy nói: “Tôi sẽ phá Đền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày, tôi sẽ xây một Đền Thờ khác, không phải do tay người phàm!" (Mc 14:58)
Những lời này là một sự tráo trở về những lời mà Chúa chúng ta đã nói lúc Người mới bắt đầu giảng dạy công khai khi đề cập đến điều bây giờ xẩy ra. Sau khi xua đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ, những người Pharisiêu đã yêu cầu Người chứng minh bởi đâu mà Người có quyền làm như thế. Chúa chúng ta, ám chỉ về đền thờ Thân Thể của Người, đã nói:
Hãy phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại. (Ga 2:19)
Bây giờ những người làm chứng gian tuyên bố là Đức Giêsu đã nói là Người sẽ phá đền thờ này; nhưng thực sự là Người đã nói rằng họ sẽ phá nó đi và đền thờ đó là Thân Thể của Người, chính thân thể đó đã bị tát từ cánh tay của một người Roma dưới quyền của Titus. Người đã không nói, “Ta sẽ phá hủy,” nhưng là, “Các ngươi phá hủy.” Người cũng không nói, “Ta sẽ xây cái khác,” nhưng Người đã nói, “Ta sẽ dựng lại,” ám chỉ đến việc Sống Lại của Người. Sự bẻ cong về lời nói của Người dù sao cũng là mộtlời chứng đối với mục đích cho việc Người đến và định ý trong trí óc của họ về Thập Giá và Vinh Quang của Người. Như độ cong và uốn éo của một vòng tròn được hình thành trên cùng một đường, thì ác ý đương nhiên của họ và việc tự nguyện chịu đau khổ của Người cũng kết hợp lại. Những mục đích của Thiên Chúa sẽ được thực hiện lúc này như chúng đã từng có ở nơi ông Giuse, một hình ảnh báo trước về Người, Giuse người đã nói với các anh em khi họ bán ông cho người buôn Ai cập trong ý đồ xấu, nhưng Thiên Chúa lại làm nên cái tốt. Trong việc trao Người cho kẻ dữ, Giuđa đã nộp Người cho người Do Thái, người Do Thái trao nộp Người cho dân ngoại, và người dân ngoại đóng đinh Người. Nhưng, ở mặt khác của bức tranh, Chúa của chúng ta nói rằng Chúa Cha đã trao Con của Người như giá cứu chuộc cho nhiều người. Do đó sự dữ trong hành động tự do của con người đã bị trấn áp bởi Thiên Chúa, Đấng có thể làm cho một việc sa ngã thành “lỗi lầm may mắn” hay một “sai lỗi có phước.”
Ngôi Lời Nhập Thể không đối đáp đối với lời chứng gian: Caipha, khó chịu vì bị vướng trong những mâu thuẫn, đã tuyên bố:
"Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa không?" (Mt 26:63)
Ở đây Caipha nói với Chúa trong tư thế là vị thượng tế hay là người làm việc của Thiên Chúa, và buộc Đức Kitô tuyên thệ trả lời. Caipha không đặt câu hỏi liên can đến việc phá hủy đền thờ hay đến các môn đệ của Người. Câu chấn vấn là: Có phải ông là Đấng Kitô hay là Đấng Thiên Sai; là Con Thiên Chúa; có phải ông có Thiên quyền; có phải ông là Ngôi Lời nhập thể? Có đúng là Thiên Chúa, Đấng đã phán truyền nhiều lần dưới nhiều hình thức qua các tiên tri cho chúng tôi và qua Con của Người? Ông có phải là Con Thiên Chúa không? Chúa Giêsu đã lên tiếng trả lời vỏn vẹn:
Đúng thế! (Mc 14:62)
Với nhận thức cao cả và phẩm tước uy quyền, Người trả lời rằng Người là Đấng Thiên Sai và là Con Thiên Chúa Hằng Sống. Có ngụ ý trong danh xưng mà Thiên Chúa đã tỏ chính Người cho Mai-sen. Và chuyển từ Thiên Tính đến nhân tính của Người, Người nói thêm:
"Chính người vừa nói. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến." (Mt 26:64)
Trước hết Người xác nhận Thiên Tính của Người, sau đó đến nhân tính; nhưng cả hai đều ở trong chủ từ “Tôi.” Khi những nhân vật quan trọng nhất dồn ép Người, Người đã chứng nhận là Người ở bên hữu Thiên Chúa, khi Người sẽ đến lần sau hết. Nhưng nếu Người ngồi bên hữu Chúa Cha thì điều đó có nghĩa là Người sẽ lên trời; nếu Người sẽ đến lần thứ hai, nghĩa là khi đó Người sẽ đặt lên cán cân để nhận những linh hồn đã trao cho Người lúc Người đến lần thứ nhất, khi Người khiêm tốn hiện diện ở trần gian. Chúa của chúng ta cũng nhắc đến Thánh vinh 109, tiên báo về vinh quang của Con Thiên Chúa sau sự xỉ nhục, khi Người làm cho quân thù phủ phục dưới bệ chân của Người. Bất kể những nhục hình đến với Người, Người để cho vinh quang của Người chiếu tỏa giữa sự bất công trần thế khi Người công bố chiến thắng, triều đại, và sự thật là Người sẽ phán xét thế gian. Tác giả Thánh vịnh đã tiên báo điều Người đã nói và Đa-ni-en nói rõ hơn:
Trong những thị kiến ban đêm, tôi mải nhìn thì kìa: có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình diện.
Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong. (Đanien 7:13-14),
Vài năm sau cuộc xét xử này, khi Ste-pha-nô chết vì đạo và khi ông bị ngã gục chôn vùi bởi những viên đá đè trên mình, ông đã thấy điều mà Đức Kitô nói với Caipha lúc này:
"Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa." (TĐCV 7:55)
Một cơn giông bão đã đổ đến trên đầu Người khi Toà Thượng Thẩm nghe Người xác nhận Thiên Tính của mình. Đồng hồ điểm mười hai giờ; cuộc xét xử đầu tiên chấm dứt khi vị thượng tế tuyên bố Người phạm thượng:
Nghe những lời ấy, vị Thượng Tế liền xé áo tuyên án, Phạm thượng! (Mt 26:65)
Người Do Thái có thói quen xé áo của họ làm dấu chỉ sự giận dữ và đau đớn, như Giacop đã xé áo khi ông nghe tin Giuse, con của ông đã chết, và như Đavid đã xé áo khi nghe tin Saolê chết. Khi xé áo mình, Caipha thực ra đã xé bỏ chức tư tế của ông, chấm dứt hàng tư tế của A-aron và mở đường cho giòng dõi tư tế Men-ki-se-de. Chiếc áo tư tế đã bị xé và tiêu hủy bởi bàn tay của chính vị thượng tế, nhưng tấm màn trong đền thờ bị xé bởi chính tay của Thiên Chúa. Caipha đã xé áo từ vạt dưới lên theo thói lệ; Thiên Chúa xé màn từ chóp đỉnh xuống, vì không người nào dự phần vào đó. Caipha lúc này hỏi Toà thượng thẩm:
"Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, quý vị nghĩ sao?" Tất cả đều kết án Người đáng chết. (Mc 14:63-64)
Kết luận được mau chóng quyết định; Tù Nhân đã phạm thượng xúc phạm đến Thiên Chúa. Chính Sự sống phải nếm cái chết. Nhưng cái chết của Người được quyết định chỉ vì Người công bố Thiên Tính Đời Đời của Người. Trước đó Caipha đã nói nó là điều tốt để một người chết hơn là cả nước bị rơi vào tay người Roma. Bây giờ ông và tòa thượng thẩm có chủ trương khác; chuyển hướng từ chủ trương trục lợi và theo pháp luật, họ biện minh rằng cái chết của Người là cần thiết để duy trì tinh thần hiệp nhất giữa Thiên Chúa và dân của Người. Tòa thượng thẩm đã dũ bỏ trách nhiệm cho việc buộc tội bằng cách viện lý mượn danh Thiên Chúa chống Thiên Chúa.
Bây giờ Người bị buộc tội là phạm thượng, họ có thể được phép làm mọi cái, vì Người không còn quyền gì cả.
Rồi họ khạc nhổ vào mặt và đấm đánh Người. Có kẻ lại tát Người và nói: "Ông Ki-tô ơi, hãy nói tiên tri cho chúng tôi nghe đi: ai đánh ông đó?" (Mt 26:67-68)
Họ đã bịt mặt Người lại và che khuất đi ánh sáng của trời; và dẫu có bịt mắt Người lại, thì đó cũng chỉ là sự mù tối của chính họ. Họ là những người qúa tự hãnh về đền thờ trần thế của họ để bây giờ xô đẩy Đền Thờ thiên quốc, vì nơi Người có sự hiện diện đầy đủ của Đấng là Thiên Chúa. Họ đã mỉa mai dùng tước hiệu “Đấng Kitô;” nhưng khi làm như thế là họ đã làm đúng mà không biết, bởi vì Người chính là Đấng Thiên Sai, Đấng được Thiên Chúa xức dầu.
Caipha đã đạt được điều ông muốn, đó là, kết án Đức Kitô vì lời nói phạm thượng của Người, vì Người tự xưng mình là Con Thiên Chúa theo tự bản tính. Vấn đề tra hỏi là xem có phải thực sự Người là Đấng Thiên Sai và là Con Thiên Chúa, người đã được các tiên tri loan báo trước. Do đó, chính Đức Kitô là người bị đem ra xét xử trước mặt Caipha; chính Đức Kitô Vua bị xét xử bởi Philatô; và chính Đức Kitô Linh Mục Đấng bị từ khước trên Thập Giá khi Người hiến thân chịu chết. Bởi thế, đó chính là sự chế nhạo đối với chức vị của Người. Ở đây thì sự chế nhạo đã được trực tiếp nhắm vào Đức Kitô Tiên Tri được ứng nghiệm theo như lời của I-sa-i-a:
Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn,
giơ má cho người ta giật râu.
Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. (Is 50:6)
Cuộc xét xử tôn giáo kết thúc. Con Thiên Chúa bị kết tội phạm thượng; Việc Sống Lại và Sự Sống bị kết án trong phần mộ; Linh Mục Đời Đời bị kết án bởi “linh mục thượng phẩm chỉ một năm.” Bây giờ Toà Thượng Thẩm mỉa móc Người; sau đó thì đến lượt chính quyền Roma, rồi trên cây Thập Giá thì cả hai hợp lại. Nhưng lúc này thì Toà Thượng Thẩm buộc tội Người, và đem trao nộp Người cho Philatô, vì họ cho rằng chỉ có Philatô có quyền hành quyết Đức Kitô mà không phải ngại ngùng gì. Lời tiên tri nói là Người bị nộp vào tay người dân ngoại lúc này được nên trọn. Nhưng như Giuđa đã tự chuốc lấy cái chết mà hắn chuẩn bị cho Đức Kitô, thì Caipha trong quyết định để Đức Kitô phải chết vì sợ người Roma, đã chuẩn bị cho sự sụp đổ của chính thành Giêrusalem và đền thờ. Như dân chúng bỏ Đức Kitô để theo người Roma, thì sau này họ cũng đầu hàng trước quyền lực của Roma.