Nhiều người muốn ám hại Đức Kitô, nhất là khi Người tuyên bố Người là Con Thiên Chúa. Nhưng cái chết của Người chính thức được quyết định khi Người tỏ cho thấy Người có uy quyền trên sự chết bằng việc làm cho Lazarô sống lại.
Từ ngày đó họ quyết định giết Đức Giêsu (Ga 11:53).
Trước đó, Người thường nói về cái chết của Người trước khi nói đến việc sống lại của Người. Lần này Người nói về việc Sống Lại của Người trước khi những kẻ thù nghịch quyết định giết Người. Ngôi mộ trống của Lazarô đã đưa đến quyết định dẫn Người đến cây Thập Giá; nhưng ngược lại Người sẽ dùng cây Thập Giá để đi đến ngôi mồ trống.
Đây không phải là lần thứ nhất Người nói đến việc sống lại của Mình. Trước đó trong thời rao giảng công khai, khi Người cho hàng ngàn người ăn và đã hứa chính Người là Bánh Hằng Sống, Người đã nói Người sẽ ban sự sống lại cho họ:
Vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi. Mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. . . Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. . . Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. (Ga 6:38-55).
Những lời này đã vượt lên trên những lời tiên báo về Sự Sống Lại của chính Người; Đó là một xác quyết cho tất cả những ai tin vào Người và sống bằng Sự Sống Lại của Người sẽ được hưởng sự sống lại nhờ quyền năng của Người.
Trước đó ít nhất Người đã làm cho hai người chết sống lại. Người thứ nhất là con gái của Jairô, và người khác là con trai của bà góa thành Naim. Người thứ nhất mới chết; người thứ hai đã nằm trong quan tài; nhưng trường hợp kinh ngạc nhất là Lazarô.
Chúa của chúng ta, ở trường hợp đặc biệt này, đang rao giảng ở phía đông của Jordan trong miền Peraea. Cách đó một khoảng xa là thành phố Bethania, khoảng 2 dặm gần Giêrusalem. Trong thành đó có hai chị em, Martha và Maria, và em trai của họ là Lazarô, những người hay được Chúa lui tới viếng thăm. Khi Lazarô lâm bệnh, Martha và Maria đã nhờ người báo tin cho Chúa Giêsu:
Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng (Ga 11:4).
Hai chị em sau này đã gọi Người “Lạy Chúa,” cho thấy một sự nhìn nhận về ngôi vị và quyền bính Thiên Chúa nơi Người. Họ cũng đã không nại ở lý do là tình yêu thương đối với Lazarô; mà đúng hơn nguyên do là ở nơi chính Con Người của Đức Kitô. Hai chị em đã báo tin và nại đến tình yêu thương của Người, và để tùy Người quyết định làm điều tốt nhất. (Giống như Mẹ của Người đã làm thế trong tiệc cưới ở Cana, Đức Mẹ chỉ nhận định, “Họ hết rượu rồi.”) Khi Chúa Giêsu nghe tin, Người trả lời:
"Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh." (Ga 11:4)
Trong tâm trí Người lúc đó thực sự đã hiện lên cùng một lúc cả hai cái chết của Lazarô và Sự Sống Lại của chính Người; vì thế khi Người thăm Bethania và làm cho Lazarô sống lại, Người đã nói với Martha:
"Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao? " (Ga 11:40)
Vinh dự và vinh quang mà Người thường nhắc đến ở nơi Người, không như thể là Đấng Thiên Sai, nhưng là Con Thiên Chúa, Người đồng hiệp nhất với Chúa Cha. Khi Chúa nói là căn bệnh của Lazarô không đến nỗi phải chết, Người đã không nói là Lazarô sẽ không chết, nhưng đúng hơn là nói đến cái kết và mục đích cho cái chết của Người là sự vinh quang của Người như Con Thiên Chúa.
Rất có thể hai chị em Martha và Maria đã cảm thấy là ngay khi Chúa nhận được tin nhắn, Người chắc chắn sẽ mau lẹ đến với Lazarô; nhưng Người lại đợi thêm hai ngày sau khi nhận được tin rồi mới đến. Nếu đoạn cuối về cái chết của Lazarô đã không được viết ra, thì việc đó dường như Chúa đã tỏ ra thiếu quan tâm thông cảm. Đây là một trong những trường hợp hiếm hoi về việc chết chóc, yếu đau và rủi ro mà phần kết được ghi lại, và là chỗ mà những mục đích của Thiên Chúa được nhìn thấy ngay cả trong lúc Người trì hoãn.
Khoảng đường cách xa giữa nơi Chúa đang ở lúc đó đến nhà của Lazarô là một ngày đường. Do đó nếu Người ở lại Peraea thêm hai ngày và cộng thêm một ngày đi đường nữa thì tất cả là bốn ngày kể từ lúc Người nhận được tin báo. Việc trì hoãn của Chúa là một huyền bí; đau buồn đôi khi được trì hoãn với cùng lý do được gởi đến. Thiên Chúa có thể trì hoãn việc chữa lành, không phải là Đấng Tình Yêu không thương yêu, nhưng vì Đấng Tình Yêu không ngừng yêu thương, và cái tốt hơn sẽ đến từ cái ai oán đó. Đồng hồ của Thiên Cung khác với đồng hồ của chúng ta. Tình yêu của con người, không muốn chờ đợi, nhưng muốn được ngay. Việc trì hoãn đó cũng đã xẩy ra khi Người trên đường đến nhà của Jairô để cứu sống cho con gái của ông. Nơi đây thay vì Chúa mau lẹ đi đến, thì Người đã dành thời gian để chữa cho người đàn bà bị bệnh loạn huyết, khi bà chạm đến gấu áo của Người ở giữa đám đông. Công việc của ma qủi đôi khi được làm trong vội vàng chớp nhoáng. Chúa đã nói với Giuđa hãy đi làm công việc mờ ám của ông “mau đi.”
Sau hai ngày, Chúa lại nói về gia đình mà Người yêu thương. Người đã không nói, “Chúng ta cùng đi đến với Lazarô” hay “đến Bêthania,” nhưng đúng hơn, “Chúng ta cùng trở lại Giuđêa” – là thủ đô của Giêrusalem, nơi là trung tâm cho việc chống đối Người. Khi các môn đệ nghe điều này, họ đã tức khắc nhận ra sự đe dọa đến tính mạng của Người và việc ném đá ở Giêrusalem, họ nói liên quan đến những người Pharisiêu và các lãnh tụ trong dân:
Người Do Thái muốn ném đá Thầy ở đó. Thầy còn muốn đến đó sao? (Ga 11:8)
Chúa muốn thử họ. Chỉ vài tuần trước đó, Gioan đã kể lại về kẻ thù của Người:
Bấy giờ họ lại tìm cách bắt Người, nhưng Người đã thoát khỏi tay họ. (Ga 10:39)
Bây giờ Người đề nghị với các môn đệ của Người đi trở lại trung tâm chống đối đó. Giờ của Người đã đến gần. Các môn đệ đã không thể thấy việc đó là khôn ngoan hay hữu lý tí nào. Họ lo cho sự an toàn của chính họ và của Thầy họ, cho dù họ không nói ra là họ lo sợ; thay vào đó, họ chỉ đề cập đến sự đe dọa của kẻ thù muốn ném đá Người. Câu trả lời mà Chúa nói với họ lại là một ám chỉ khác cho thấy ý định của Thiên Chúa cho mạng sống của Người, và không ai có thể lấy nó đi khỏi Người.
"Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó sao? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng mặt trời. Còn ai đi ban đêm, thì vấp ngã vì không có ánh sáng nơi mình! " (Ga 11: 9-10)
Như thói quen, người thường công bố một sự thật đơn giản với hai ý nghĩa, một theo nghĩa đen và một theo nghĩa tinh thần. Nghĩa đen: có ánh sáng tự nhiên của mặt trời; người ta có khoảng 12 giờ đồng hồ để làm việc hay hành trình đi lại; trong thời gian đó có ánh sáng mặt trời soi chiếu trên đường để họ đi. Nếu một người đi lại hay làm việc ban đêm, họ sẽ vấp ngã hay làm sai trong công việc. Ý nghĩa tinh thần đó là Người đã gọi chính Người là Ánh Sáng cho Thế Gian. Như không ai có thể ngăn chặn không cho mặt trời chiếu sáng trong thời gian của ban ngày, thì cũng không ai có thể kiểm soát hay ngăn chặn sứ vụ của Người. Cho dù Người có đi lên Giuđêa, không hiểm nguy nào có thể làm hại Người cho đến khi Người cho phép. Bao lâu ánh sáng của Người chiếu toả trên các Tông Đồ thì họ không phải lo sợ gì, ngay cả ở giữa phố thị của những kẻ thù nghịch. Đó cũng là cùng một ý tưởng giống như Người đã trả lời với Herôđê khi Người gọi hắn là con cáo. Sẽ đến lúc Người cho phép để ánh sáng tắt đi và lúc đó sẽ là lúc Người nói với Giuđêa và những kẻ thù của Người trong vườn, “Đây là giờ của các ngươi và quyền lực của bóng tối.” Nhưng cho đến khi Người ban phép, kẻ thù của Người không thể làm gì được. Giờ của ban ngày tiếp tục cho đến lúc của giờ Thương Khó; giờ Thương Khó là lúc đêm tối.
Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian." (Ga 9:4-5)
Không ai có thể lấy đi khỏi Người một giây trong thời gian mười hai giờ của ánh sáng mà Người dùng để giảng dạy; cũng như không ai có thể lấy đi một giây của giờ đen tối khi Người đi vào sự chết. Khi Người tuyên bố là họ phải khởi sự cho cuộc hành trình, Tôma trong thất vọng và bi quan đã nói với các môn đệ khác:
Chúng ta cùng đi để rồi cùng chết với Người (Ga 11:16).
Biết là có sự chống đối rất mạnh ở tại Giêrusalem, Tôma đề nghị là họ có thể cùng chết cả với nhau ở Thành Thánh. Bất cứ điều gì khác đã nói về Tôma, ở đây phải nhận là mau mắn hơn tất cả những người khác, ông đã nhận ra cái chết đang đón chờ Chúa, cho dù ông là người cuối cùng tin nhận việc Sống Lại của Người. Nếu Chúa muốn bị giết, thì Tôma là người sẵn sàng chết với Người. Bất cứ khi nào Tôma xuất hiện trong Tin Mừng, ông luôn đứng ở phía bi quan. Tuy thế nếu con đường duy nhất để tiếp tục tiến bước với Thầy là chịu chết thì Tôma lúc ấy sẵn sàng.
Khi Chúa đến Bethania, Lazarô đã được chôn cất bốn ngày rồi. Bethania, cách Giêrusalem gần hai ngày đường và có thể trong tầm nhìn thấy đền thờ, và là nơi nhiều người qua lại, nhất là cho những người thù ghét Chúa để ý khi họ biết lịch trình của Chúa. Nhiều người láng giềng quen biết cũng đến an ủi hai chị em. Khi nghe tin báo là Chúa đến, Martha, một người linh hoạt, đã mau mắn đứng dạy và đi ra chào đón Chúa, trong khi Maria ở lại trong nhà. Martha đã có sự tin tưởng vào quyền lực của Đức Kitô, nhưng vẫn còn trong giới hạn, vì cô nói với Người:
Nếu Thầy có mặt ở đây thì em con đã không chết (Ga 11:22).
Khi Chúa nói là em của cô sẽ sống lại, Martha đã nhìn nhận là đúng thế, em con sẽ sống lại trong ngày sau hết. Thật hơi lạ là Martha đã không nghe hay không nhớ, điều mà trước đâu Chúa đã nói ở đền thờ:
Các ông chớ ngạc nhiên về điều này, vì giờ đã đến, giờ mọi kẻ ở trong mồ sẽ nghe tiếng người Con và sẽ ra khỏi đó: ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án. (Ga 5:28)
Đức tin mà Martha bày tỏ về sự sống lại là của hầu hết người Do Thái, ngoại trừ nhóm Sa-đu-cê. Như người phụ nữ bên bờ giếng biết rằng Đấng Thiên Sai sẽ đến, mà vẫn không biết Người đang nói chuyện với bà, thì Martha, dù tin vào sự sống lại, vẫn không biết là Sự Sống Lại đang đứng ngay trước mặt cô. Như Chúa đã nói với người phụ nữ bên bờ giếng Người là Đấng Thiên Sai, thì bây giờ Người cũng nói với Martha:
Ta là sự sống lại và là sự sống (Ga 11:25).
Nếu Đức Kitô chỉ nói: "Ta là Sự Sống Lại” mà không hứa ban sự sống tinh thần và đời đời, thì như thế là chỉ hứa cho việc đầu thai lại trong kiếp luân hồi của khổ ải. Nếu Người đã nói: “Ta là Sự Sống” mà không nói, “Ta là Sự Sống Lại,” chúng ta cũng chỉ có lời hứa cho sự sinh tồn tiếp tục của những cái không được mãn nguyện hài lòng. Nhưng bởi liên kết cả hai, Người đã xác quyết rằng ở nơi Người là sự sống mà nhờ cái chết, mà được sống lại hoàn hảo; do đó sự chết không phải là cái kết, nhưng là khởi đầu cho sự sống lại một đời sống mới và toàn vẹn. Đó là cách liên kết mới với Thập Giá và vinh quang, như lời tiền xướng cho thánh vịnh của đời Người. Ngay khi Người nói điều này, Người chủ tâm đi vào lãnh thổ của những kẻ thù ghét Người ở Giuđêa. Chúa của chúng ta đã bất đắc dĩ phải dùng đến từ ngữ “chết,” để chứng minh là tất cả cuộc đời của Người là để chống ngược lại nó. Người đã dùng từ ngữ nói về cái chết của con gái ông Jairô cũng như khi Người nói về Lazaro, đó là họ “ngủ.” Những người theo Chúa Kitô cũng dùng từ ngữ giống như thế khi nói về Stêphanô, đó là ông “Ngủ yên.”
Khi Chúa hỏi Martha xem cô có tin là bất cứ ai tin vào Người sẽ không phải chết, thì cô trả lời:
"Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian." (Ga 11:27)
Đức tin hoàn toàn vào việc Nhập Thể này đã chuẩn bị để phép lạ tiếp theo sau. Maria đã đến trong nước mắt. Khi Chúa thấy cô khóc và những người bạn của cô ở đó cùng khóc:
Người đã thổn thức trong lòng và xao xuyến (Ga 11:33)
Không chần chừ nữa, Người đã cảm thông trong sự chết và nỗi buồn khổ, là hai ảnh hưởng chính của tội lỗi. Người đói vì Người muốn thế; Người đã buồn sầu vì Người muốn thế; Người đã chết vì Người muốn như thế. Một đoàn dài những người thương khóc qua muôn thế kỉ, ảnh hưởng đau buồn của sự chết mà chính Người sắp đón lấy, thôi thúc Người nhận uống chén của cây Thập Giá. Không có Linh Mục Thượng Phẩm xứng đáng mà không biết cảm thông với những thống khổ của chúng ta. Như Người đã chịu yếu hèn trong cái yếu hèn của chúng ta, túng thiếu trong sự túng thiếu của chúng ta, và đau khổ trong buồn khổ của chúng ta. Chủ tâm chia sẻ những khổ đau của những người mà Người cứu chuộc đã khiến cho Người phải khóc. Tiếng Hy lạp được dùng để ám chỉ việc âm thầm rơi lệ. Chúa của chúng ta được trình bày trong Thánh Kinh là khóc ba lần; một lần cho đất nước, khi Người khóc thành Giêrusalem; một lần trong vườn Gethsemane, khi Người khóc về tội lỗi của thế giới; và một lần nơi mộ của Lazarô, khi Người khóc về ảnh hưởng của tội lỗi, đó là sự chết. Không giọt nước mắt nào là cho chính Người, nhưng cho tính nhân loại mà Người tự nhận mang lấy. Trong mỗi trường hợp, con tim nhân loại nơi Người có thể phân biệt hoa quả với cội rễ, những sự dữ ảnh hưởng trên thế giới với nguồn gốc của chúng, đó là tội lỗi. Đúng thật Người là “Ngôi Lời mặc lấy xác thể.” Nhiều người đứng gần mồ của Lazarô đã nói:
"Kìa xem! Ông ta thương anh La-da-rô biết mấy! (Gio 11:37)
Nhưng những người khác ở đó cũng khóc và tỏ lời hoài nghi trách móc khi họ hỏi nhau:
"Ông ta đã mở mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết ư? " (Ga 11:36)
Rõ ràng là có sự hoài nghi Người là Đấng Thiên Sai liên quan đến những việc lạ lùng Người đã làm. Trên Cây Thập Giá cũng thế, họ đã nhìn nhận mọi phép lạ, trừ ra việc Người không thể tự làm cho mình xuống khỏi Cây Thập Giá. Họ đồng ý nhìn nhận mọi phép lạ; nhưng nếu thực sự Người là Đấng Thiên Sai và là Con Thiên Chúa, thì Người đã không để cho Lazarô phải chết. Vì Người đã không làm thế, cho nên Người không phải là Đức Kitô. Không đếm xỉa gì đến những lời xì xèo trách móc của họ, khi Người đến gần mộ của Lazarô, Người đã bảo họ lăn tảng đá ra. Martha xác quyết là Lazarô đã chết khi nói với Người:
"Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày."(Gio 11:39)
Cô đã cảnh giác Chúa là tình trạng của xác chết đã thối rữa rồi không còn hy vọng gì để làm cho sống lại được trừ khi đợi cho đến ngày sau hết. Nhưng trong sự tuân phục mệnh lệnh của Chúa để lăn tảng đá ra khỏi cửa mồ, Chúa đã trực tiếp cầu khẩn với Chúa Cha trên trời. Điều kiện cho Lời Cầu Nguyện của Người là qua phép lạ này, những người đã chứng kiến có thể tin là Chúa Cha và Người là Một, và Chúa Cha đã sai Người đến thế gian. Rồi:
Người cất tiếng gọi: Anh Lazarô hãy chỗi dạy ra khỏi mồ! (Ga 11:44)
Lazarô đã bước ra khỏi mồ với những khăn vải còn quấn quanh thân mình; những bàn tay yêu thương của hai chị đã cởi gỡ khăn vải quấn che mặt của anh; và anh, người bị sự chết cầm giữ đã được phục hồi sự sống. Ở đây đầy tia sáng chiếu rọi của ban ngày, trước sự chứng kiến của những người thù ghét, một người đã chết bốn ngày được cứu cho sống lại trong nháy mắt.
Như ánh nắng mặt trời làm khô bùn ướt, và soi rọi vào nến sáp làm cho nó mềm ra, thì phép lạ vĩ đại này của Chúa làm khô cứng lòng của một số người không tin, và làm một số người mềm xuống để tin. Một số người đã tin: nhưng ảnh hưởng chung vẫn là quyết tâm giết Chúa. Nhiều người đã chạy đi báo với những người Pharisiêu về tất cả những việc Đức Kitô đã làm.
Nhưng lại có những người đi gặp nhóm Pha-ri-sêu và kể cho họ những gì Đức Giê-su đã làm. Vậy các thượng tế và các người Pha-ri-sêu triệu tập Thượng Hội Đồng và nói: "Chúng ta phải làm gì đây? Người này làm nhiều dấu lạ. Nếu chúng ta cứ để ông ấy tiếp tục, mọi người sẽ tin vào ông ấy” (Ga 11:17,48)
Không có thắc mắc gì về việc sống lại; vấn đề là làm cách nào ngăn chặn không để cho Người gây ảnh hưởng với quyền lực như thế được. Người đã hiển nhiên chứng minh qua các phép lạ Người là Đức Kitô. Nhưng các phép lạ không thể chữa trị được triệu chứng không có niềm tin. Một số người vẫn không tin cho dù ngày nào cũng có người chết sống lại. Lý luận của họ thật lạ kỳ:
“Người Rô-ma sẽ đến phá huỷ cả nơi thánh của ta lẫn dân tộc ta." (Ga 11:48)
Họ cho rằng nếu Người tiếp tục làm những phép lạ và bày tỏ quyền lực như thế, dân chúng sẽ tôn nhận Người là Vua của họ. Nhưng họ nghĩ như thế sẽ làm cho nhà cầm quyền Roma, những người đang cai trị đất nước của họ, nổi giận. Mục đích của họ là hy sinh Đức Kitô để khỏi bị nhà cầm quyền Roma tiêu diệt họ. Nhưng điều họ lo sợ vẫn cứ đến, như lời Chúa đã tiên báo. Quân Roma dưới thời Tius đã phá hủy thành thánh và đốt phá đền thờ của họ, đưa toàn dân tộc của họ đến lầm than.
Caipha, vị thượng tế, có mặt trong cuộc họp Thượng hội đồng này. Trong khi nhiều người nói là không biết phải đối xử thế nào thì Caipha tinh xảo cảnh giác họ và đề nghị một giải pháp trong đó tàng ẩn sự thật nhiều hơn là ông nghĩ.
Các ông không hiểu gì cả, các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là: thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt." (Ga 11:51)
“Hãy để người Roma, không phải chúng ta, quyết định về cái chết của Người,” là biện luận của ông. “Chúng ta sẽ không bị mang tội giết Người mà dân chúng ngưỡng mộ, và những người Roma sẽ chịu trách nhiệm đó.” Chúa của chúng ta sẽ là con dê tế để làm người Roma nguôi giận. Đóng đinh Người này sẽ làm vui lòng Caesar, và loại trừ đi sự ngờ vực là người Do Thái muốn nổi loạn chống lại Roma.
Caipha đã không nhận biết ý nghĩa thực trong lời nói của ông, đó là Một Người chết thay cho toàn dân thì tốt hơn là cả đất nước bị tiêu diệt. Nhiều thế kỷ trước đó, động lực xui khiến các anh của Giuse đã xấu xa khi họ muốn ném ông xuống đáy giếng và bán ông làm nô lệ; nhưng làm như thế là họ đã hoàn tất các mục đích của Thiên Chúa.
Các anh đã định làm điều ác cho tôi, nhưng Thiên Chúa lại định cho nó thành điều tốt, để thực hiện điều xảy ra hôm nay, là cứu sống một dân đông đảo. (STK 50:20)
Ở đây, nhìn ở khía cạnh con người, có sự mưu sát cho lý do chính trị; nhìn ở phía Thiên Chúa, Caiphas tình cờ đã xác nhận Đức Kitô là của lễ hiến tế cho dân Do Thái, và cho toàn thể nhân loại. Cái chết của Người chỉ là đại diện; Cuộc sống của Người sẽ là sự hy sinh cho người khác. Vị Thượng Tế trong thời xưa được cho là có khả năng nói tiên tri, và Tin Mừng bình luận về câu nói xỏ này như một lời tiên trị thật:
Điều đó, ông không tự mình nói ra, nhưng vì ông là thượng tế năm ấy, nên đã nói tiên tri là Đức Giê-su sắp phải chết thay cho dân, và không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối. (Ga 11:51-52)
Đến cuối đời của Người, một người thuộc nhóm Sa-đu-cê không tin vào sự sống lại đã xác nhận điều mà thiên thần đã công bố là lúc Người sinh ra Tên của Người là Giêsu, nghĩa là:
Ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ." (Mt 1:21)
Caipha đã công bố một sự hiệp nhất mới, một giao ước sẽ được thực hiện bởi Đấng hiến mình thay cho mọi người và nhờ đó cứu chuộc họ. Chúa đã nói rằng Người đến để hiến mạng sống của Người như của lễ đền tội cho nhân loại. Caipha cũng đã nói điều đó, mà không nhận ra ý nghĩa của điều ông nói. Đấng Chăn Chiên Hiền Lành chịu chết để nhờ đó đem về “một đoàn chiên và một Chủ Chiên.”
Việc Sống Lại của một người đã đóng dấu cho cái Chết của Người. Vì tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ và một người chết đã được gọi bước ra để sống lại, thì bây giờ những người cầm quyền truyền lệnh để lăn tảng đá đóng cửa mồ của Người.
Từ bấy giờ trở đi, họ bắt đầu lập mưu giết Người (Ga 11:53).