Sau ngày họ có ý bắt Người, một cảnh xẩy ra là người vô tội từ chối lên án một người có tội. Đây là một hoàn cảnh khó xử liên quan đến công bằng và tình thương – một tình huống khó xử đặt ở tâm điểm của việc nhập thể. Nếu Thiên Chúa đầy tình thương xót, chẳng lẽ Người không tha thứ cho những người có tội? Nếu Thiên Chúa công bằng, chẳng lẽ Người không trừng phạt hay buộc họ phải đền bù cho những tội phạm của họ? Là Đấng toàn thánh, Người ghét tội lỗi, không vậy thì Người không phải là Tốt Lành. Nhưng là Đấng đầy tình thương xót, chẳng lẽ Người lại không, giống như một người ông, mần ngơ trước việc các cháu làm vỡ bể các giới răn? Bằng cách nào đó, cái chết của Người trên thập giá và sự sống lại đã liên hệ đến câu trả lời cho vấn nạn này.
Vào tối hôm trước khi sự việc xẩy ra, Thánh kinh cho chúng ta một so sánh tương phản sống động nhất trong văn chương; nó được gói trong hai câu ngắn gọn. Chúa Giêsu đã giảng dạy suốt ngày nơi đền thờ; khi màn đêm buông xuống, Tin mừng kể là trước tiên những kẻ thù của Chúa đã rêu rao bài bác Chúa.
Và rồi ai nấy trở về nhà mình (Ga 7:53).
Còn Chúa Giêsu thì Tin Mừng kể lại: Người thì đi lên núi O-liu (Ga 8:1).
Trong số những người ở đền thờ – những người bạn hay kẻ thù – không ai là không có nhà có cửa, ngoại trừ Chúa. Chúa đã nói về chính Người:
Cáo có hang, chim có tổ; nhưng Con Người không có chỗ dựa đầu (Lc 9:58).
Trong vùng Giêrusalem, có lẽ duy chỉ có mình Chúa Giêsu là người vô gia cư không nhà không cửa. Trong khi những người khác đi về nhà để hàn huyên với những người thân thích, thì Người đi lên núi O-liu để hàn huyên không phải với người phàm xác thể máu huyết, nhưng với Cha của Người. Người biết là chẳng bao lâu nữa cái khu vườn này sẽ là một nơi tĩnh tâm thiêng liêng, nơi mà Người sẽ đổ ra những giọt mồ hôi máu trong cuộc chiến với quyền lực xấu xa. Trời về khuya Người ngủ nghỉ theo lối Đông Phương trên thảm cỏ xanh dưới những cây oliu cổ thụ như ôm cuốn lấy nhau trong khát vọng vươn lên như để che đi cuộc thương khó chịu nạn của chính Người.
Lúc đó là mùa lễ Lều Tạm, một dịp lễ không những chỉ có nhiều người từ muôn phương kéo về mà còn làm nên sự nhộn nhịp tưng bừng, lời cầu nguyện ngân vang, và nghỉ ngơi giải trí. Dĩ nhiên cũng xẩy ra đó đây một vài lạm dụng đồi bại. Những cái như thế đã xẩy ra. Vì vào buổi sáng còn rất sớm, khi Chúa vào đền thờ và bắt đầu giảng dạy, thì những người Biệt Phái và Pharisiêu đã đưa đến trước mặt Người một người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Họ đã sẵn sàng tranh luận hơn thua với Đấng Thiên Sai đến nỗi không ngần ngại dùng đến việc làm nhục một người phụ nữ để dành chiến thắng. Dĩ nhiên là không còn nghi ngờ gì về việc phạm tội của người phụ nữ. Tinh khôn, đúng hơn là qủi quyệt, họ đã trình bày câu truyện, cho thấy tất cả sự thật không thể chối cãi. Họ nói:
Thưa thầy, người phụ nữ này đã bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình (Ga 8:4).
Bắt quả tang! Thật nham hiểm, dò thám và thối nát đã được tàn ẩn trong những lời nói của họ! Những kẻ tố cáo đã đưa người phụ nữ đến giữa đám đông khi Chúa đang giảng dạy. Những kẻ coi mình “thánh thiện hơn” đã bắt quả tang người phụ nữ đó và nóng lòng tố cáo chị trước công luận, đến nỗi họ cắt ngang bài giảng của Chúa. Tính người bị hạ thấp khi nó đem quảng bá bêu xấu tội lỗi của người khác trước thiên hạ. Cái nồi tưởng là nó sạch khi nó bảo cái ấm trà bị ám khói đen. Một vài khuôn mặt tưởng là rực sáng khi nói về tội phạm của người khác, trong khi người có lòng quảng đại lại che đi và người đạo đức thì dâng lời cầu nguyện. Người càng hạ cấp và băng hoại thì lại càng mau lên án người khác. Những người mong muốn tạo lập uy tín tốt lại ngờ nghệch cho rằng cách tốt nhất là vạch mặt kể tội người khác. Những kẻ xấu nết dường như thuộc cùng một giòng trong những xấu xa của họ, và khi họ thấy người khác có những cái xấu giống như họ, thì họ lại vội lên án đến nỗi như chẳng còn có cái gì tốt. Để biết cái xấu của một người thì hãy nghe những lời tố cáo của họ về người khác. Vào thời đó không có những mục đề bàn luận về những vụ bê bối tai tiếng trên các phương tiện truyền thông như bây giờ, nhưng có đầy những người tung tin gièm pha. Lôi kéo người phụ nữ ra trước đám đông là cách mà họ đưa chị ra công luận. Đám đông hò hét đẩy chị ra phía trước, còn chị thì cố bưng mặt với đôi bàn tay run rảy kéo chiếc khăn phủ đầu để che sự ô nhục của mình. Khi họ lôi kéo phạm nhân đang run rẩy của họ, phơi bày trước mặt mọi người cái ô nhục nhất mà một người phụ nữ Đông phương có thể phải gánh chịu, họ nói với Chúa trong giọng điệu khiêm nhường giả hình:
Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mai– sen truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao? (Ga 8:4-5).
Họ nói đúng, luật Mai-sen truyền ném đá người phạm tội ngoại tình. Chúa của chúng ta theo bản năng đã phân định được cái trò kính trọng Giả hình của họ qua cách họ thưa với Người “thưa Thầy”; Người biết thừa đó chỉ là cái áo khoác cho cái kế hoạch nham hiểm trong lòng họ. Một đàng, tâm hồn của Người co lại vì cảnh tượng trước mặt; vì Người đã dạy về sự thánh thiện của hôn nhân, và người phụ nữ này lại lỗi phạm. Đàng khác, Người biết là những người Biệt Phái và Pharisiêu đã nhìn vào sự cố chẳng có gì ngoài chớp lấy cơ hội để gài Người trong lời giảng. Người biết là họ muốn dùng người phụ nữ như một dụng cụ của sự thù ghét ở nơi chính họ để chống lại Người – không phải là họ ghét tội, cũng chẳng phải là để bảo vệ lề luật của Thiên Chúa, nhưng chỉ là để cổ động dân chúng công kích chống Người.
Một cái bãy hai chiều được ẩn giấu trong việc tố cáo người phụ nữ đứng đối diện với Chúa. Trước tiên, vì sự xung khắc giữa người Do Thái và nhà cầm quyền Roma. Nhà cầm quyền Roma là người cai trị đất nước, chỉ họ có quyền ra án tử hình cho bất cứ ai. Nhưng đàng khác, luật Mai-sen lại dạy khi một người phụ nữ bị bắt vì phạm tội ngoại tình thì sẽ bị ném đá. Đây là cái phức tạp họ bày ra cho Người: Nếu Người không lên án và để cho người phụ nữ đã bị bắt vì tội ngoại tình được tự do, thì Người bị kết án là không tuân giữ luật Mai-sen; nhưng nếu Người tôn trọng luật Mai-sen, và đồng ý ném đá chị vì đã ngoại tình, thì Người lại vướng vào chuyện khuyến khích không tôn trọng quyền cai trị của chính quyền Roma. Trường hợp nào cũng không thoát đươc. Dân chúng sẽ chống đối Người vì lỗi luật Mai-sen; chính quyền Roma cũng sẽ lên án Người phạm đến luật pháp của họ nếu Người đồng tình ném đá. Người một là kẻ phản giáo, hay là kẻ phản loạn đối với chính quyền Roma.
Còn một cạm bãy khác trong câu chất vấn của họ. Một là Người lên án người phụ nữ, hoặc là tha cho chị. Nếu Người lên án chị, thì họ sẽ nói Người không biết xót thương; thế nhưng chính Người đã xưng mình là người đầy tình thương xót. Người đã ngồi cùng bàn ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi; Người cho phép một người phụ nữ tội lỗi rửa chân cho Người đang lúc trong bữa ăn; nếu Người lên án chị, thì Người không thể nói Người là bạn của những người tội lỗi nữa. Người đã từng nói: Con người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất (Lc 19:10).
Đàng khác, nếu Người tha cho chị, thì Người lại hành động ngược lại với lề luật của Mai-sen, cái mà Người đến để kiện toàn. Người đã từng nói:
Đừng nghĩ là Ta đến để phá bỏ lề luật và các tiên tri; Ta không đến để phá bỏ, nhưng để kiện toàn. (Mt 5:17).
Vì Người nói Người là Thiên Chúa, Luật Mai-sen phải đến từ Người. Nếu Người không tuân giữ lề luật ấy, Người đã tự chối bỏ thần tính của Người. Bởi thế vấn nạn của họ là, “Mai-sen trong luật đã chỉ thị rằng những hạng người như thế phải bị ném đá chết; Thầy nghĩ sao? Hình phạt của Thẩy là gì đối với hạng người như thế?
Thật là một câu hỏi hóc búa cho một người bình thường, nhưng Người là Thiên Chúa và cũng là con người. Người là Đấng đã hòa hợp công lý và tình thương trong việc nhập thể bây giờ áp dụng thêm khi Người cúi mình viết trên đất – Đây là lần duy nhất trong đời Người viết. Người viết điều gì không ai biết. Tin mừng chỉ đơn giản nói:
Chúa Giêsu cúi xuống dùng ngón tay viết trên đất (Ga 8:6)
Họ đã trích dẫn luật Mai-sen. Thì Người cũng làm như thế! Luật Mai-sen có từ khi nào? Ai đã viết ra? Ngón tay của ai? Sách Xuất Hành trả lời:
Ông Mai--sen từ núi trở xuống, tay cầm hai tấm bia Chứng Ước; những bia ấy có viết cả hai mặt, mặt trước cũng như mặt sau. Những bia ấy là do Thiên Chúa làm ra, chữ là chữ của Thiên Chúa, khắc trên các bia. (XH 32:15-16).
Họ đã nhắc cho Người về luật Mai-sen! Để đáp trả lại, Người nhắc cho họ là Người đã viết ra luật! Cùng ngón tay ấy, dấu chỉ cho thấy, bây giờ đang viết trên những tảng đá nơi nền của đền thờ, cũng đã viết trên tảng đá ở Sinai khi xưa. Giả như mắt của họ nhìn thấy Đấng Ban Lề Luật của Mai-sen đang đứng viết ở trước mặt họ đó thì sao? Nhưng họ đã qúa mải mê đến việc gài bẫy Người trong lời nói và không còn màng đến điều Người viết và đã tiếp tục tấn công Người với những câu hỏi của họ; qúa chắc chắn là họ đã cho Người vào bẫy không có lối thoát.
Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi." Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. (Ga 8:7-8).
Mai-sen đã viết trên tảng đá Lề Luật tử hình chống lại tội lỗi đức trong sạch. Chúa đã không phá bỏ lề luật đó của Mai-sen, nhưng làm cho hoàn hảo bằng cách nêu lên lề luật cao hơn: Không ai ngoài người vô tội có thể lên án! Người đã lập bồi thẩm đoàn mới; chỉ người vô tội mới được kết án; Người nhìn từ lề luật đi vào lương tâm, và từ cách xét xử của con người đến việc xét xử của Thiên Chúa. Những ai có tội từ trong nội tâm thì không được lên án.
Một tấm thuẫn che cũ han rỉ cầu nguyện, “Ôi mặt trời, xin hãy soi sáng vào tôi.” Và mặt trời đáp lại, “Trước tiên, ngươi phải đánh bóng sạch chính mình đã.” Vậy người phụ nữ này có nên bị kết án bởi những người cũng có tội không? Đây chính là lời xác quyết rằng chỉ người vô tội mới có quyền xét xử. Nếu như ở thế gian có ai đó thực vô tội, thì chứng tỏ là tình thương của người ấy mạnh hơn công lý. Rất đúng là một thẩm phán ngồi ở tòa có thể đã thường ra án phạt cho một phạm nhân vì một tội mà có thể chính ông cũng đã lỗi phạm; nhưng trong trách nhiệm của ông, ông đã hành động nhân danh Thiên Chúa, chứ không phải nhân danh của ông. Những người tự nhận lấy vai trò tố cáo người phụ nữ này không xứng đáng để bênh vực hay thực hành luật Mai-sen. Chúa của chúng ta đã gói gọn trong một câu nói điều mà Người đã nói trong bài giảng trên núi:
"Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em. Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại nói với người anh em: "Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt bạn", trong khi có cả một cái xà trong con mắt anh? (Mt 7:1-5).
Khi Người viết trên đất, các Luật sĩ và Pharisiêu đã lăm le cầm sẵn đá trên tay để thi hành án lệnh. Họ sàng nhắc cục đá trên tay của người bên cạnh, cân nhắc so sánh xem hòn đá của ai nặng hơn, và rồi trả lại cục đá nhẹ hơn, để họ có thể ném cục đá nặng hơn vào người phụ nữ. Một vài người trong nhóm của họ đã giữ mình không có tội giống như tội của người phụ nữ có thể vì họ có những tật xấu khác. Một số người tránh được tội này chỉ vì họ đã có những tội khác. Cũng giống như một người đã mắc căn bệnh này thì không bị căn bệnh kia, cụt tay rồi thì không còn bị gẫy tay; do đó một thói xấu này loại trừ thói xấu kia; người nghiện rượu có thể không phải là kẻ cướp, nhưng lại thường là người nói dối; kẽ ăn cướp, giống như Giuđa Iscariot, có thể không là người ngoại tình, cho dù phim ảnh hay mô tả ông là người như thế. Có nhiều người phạm tội kiêu ngạo, khoe khoang, tham của, tham quyền, và vẫn nghĩ là họ đạo đức bởi vì những tội này trong thời hiện đại lại được để ý đề cao. Những tội được cao rao lại càng đáng ghét hơn, vì Chúa của chúng ta nói rằng chúng làm cho con người nên giống như những “mồ mả sơn quét vôi trắng, bên ngoài thì bóng bẩy sạch sẽ, nhưng bên trong thì xương xác người chết. “Những tệ trạng của người nghèo bị coi là gánh nặng cho xã hội và việc lo phục vụ xã hội hay các trại giam, lại bị khinh chê; nhưng những tội được cao rao như sự khoe khoang tham ô của giới lãnh đạo, không trung thành với quốc gia dân tộc, dạy nhữngđiều xấu nơi các học đường, hay đại học, lại được làm thinh và bỏ qua hay lại còn được ca tụng khen là tốt.
Chúa của chúng ta coi những tội được cao rao thì đáng khinh hơn là những thứ tội mà xã hội lên án. Người không hề lên án những tội mà xã hội lên án, bởi vì những thứ tội đó đã bị lên án rồi. Nhưng Người lên án những ai đã phạm tội mà lại chối không nhìn nhận họ là người có tội.
Bây giờ Người đưa mắt nhìn từng người, từ người cao tuổi nhất; đó chính là một trong những cái nhìn trầm lặng trưóc lời thẩm phán cuối cùng.
Khi họ nghe Người nói, từng người một đã bỏ đi, người lớn tuổi nhất bỏ đi trước (Ga 8:9).
Có lẽ càng lớn tuổi hơn thì càng nhiều tội hơn. Người không lên án họ; Người chỉ để cho họ tự lên án chính mình. Có lẽ Người đã nhìn một người lớn tuổi, và lương tâm của ông đã lóe lên cái tiếng “kẻ cắp” – và ông đã bỏ rơi cục đá xuống rồi lấn trốn mất. Một người trẻ tuổi hơn đã nhìn vào lương tâm của mình và nghe như bị tố là kẻ giết người, và hắn cũng đã bỏ đi; từng người một tất cả đều đã bỏ đi cho đến khi chỉ còn một người đàn ông trẻ ở lại. Khi Đấng Cứu Thế nhìn vào người còn sót lại cuối cùng, đó có thể là người “Ngoại Tình” mà lương tâm của y tố cáo y; hắn cũng buông rơi hòn đá xuống và tẩu thoát. Không còn ai nữa!
Nhưng tại sao Người lại cúi xuống tiếp tục viết? Vì họ nại đến lề luật của Mai-sen; thì Người cũng khiếu nại như thế. Mai-sen đã đập bể những bia đá lần thứ nhất mà trên những bia đá đó Thiên Chúa đã viết, khi ông thấy dân chúng thờ bò vàng. Do đó Thiên Chúa lại viết trên bia đá thứ hai, và bia đá này được giữ trong hòm giao ước, và được để trên ngai tòa tình thương và được vảy bằng máu vô tội. Đó là cách mà Luật Mai-sen được bảo vệ bằng việc rảy bằng máu – Máu của Con Chiên.
Bằng việc bênh vực cho người phụ nữ, Đức Kitô đã chứng minh Người là bạn của những người có tội, nhưng chỉ với những người nhận mình là người có tội. Người đã phải đi đến với những người nơi lề xã hội để thấy được sự rộng lượng của tấm lòng và sự quảng đại không đo lường, mà theo Người, đã làm nên căn tính của tình yêu. Dù họ là những người có tội, tình yêu của họ đã nâng họ vượt lên trên những người tự cho mình là khôn ngoan, tự mãn bản thân chẳng bao giờ qùi gối để cầu xin ơn tha thứ. Người đến để đặt một người đàng điếm lên trên người Pharisiêu, một tên cướp biết thống hối trên một vị thượng phẩm, và một người con hoang đàng trên một người anh gương mẫu. Với những người giả đò giả mạo nói là họ không thể gia nhập Giáo hội bởi vì Giáo Hội không thánh thiện đủ để họ gia nhập. Ta có thể hỏi, “Giáo Hội phải thánh thiện thế nào để họ gia nhập?” Nếu Giáo Hội thánh thiện như họ mong muốn, thì họ sẽ chẳng bao giờ được phép gia nhập! Trong mọi tôn giáo ở trần gian dưới ánh mặt trời, nơi mọi tôn giáo Đông Phương từ Phật Giáo đến Khổng Giáo, luôn luôn có cái phải được thanh luyện trước khi một người có thể trở nên thông hiệp với Thiên Chúa. Nhưng Chúa của chúng ta đã mang lại một tôn giáo ở đó việc nhìn nhận tội lỗi lại là điều kiện để được đến thông hiệp với Người. “Những người khỏe mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng những người yếu đau mới cần.”
Người đã ngước nhìn người phụ nữ đang đứng đó một mình, và hỏi chị:
Họ đi đâu hết cả rồi? Không ai ném đá chị sao? (Ga 8:11).
Lề luật Mai-sen đòi phải có hai nhân chứng đối với một tội trạng trước khi án lệnh được thi hành; họ còn có thể hỗ trợ để thi hành án lệnh. Nhưng những người bảo vệ lề luật của Mai-sen này lại không còn ở đó để làm chứng nữa. Hãy để ý đến lời của Chúa nói, “Này Chị.” Có nhiều tên khác Chúa có thể dùng để gọi người phụ nữ đó; nhưng người đã để chị đứng đại diện cho tất cả những người phụ nữ trên thế gian có lòng khao khát sự thanh sạch và thánh thiện trong tình hiệp thông với Người. Dường như có sự hóm hỉnh trong câu hỏi thứ nhất của Người. “Này chị, họ đi đâu cả rồi?” Người kéo sự chú ý đến việc chị đang đứng ở đó một mình! Người đã loại trừ tất cả những người tố cáo chị. Trong cái cô đơn cô thế đó Người cất tiếng hỏi:
Không ai kết án chị sao?
Chị trả lời, “Dạ thưa không!”
Nếu không có ai ném đá chị thì Người cũng không. Chị, người có tội, đến với Người, một quan tòa, đã gặp Người là một Đấng Cứu Chuộc. Những người tố cáo đã gọi Người là “Thầy”; chị đã gọi Người không phải là “Thưa Ông”, nhưng là “Chúa”, như nhìn nhận rằng chị đang đứng trước sự hiện diện của một Đấng uy quyền cao cả hơn chị. Và lòng tin của chị vào Người được nên công chính, vì Người quay sang nó với chị:
Ta cũng không luận tội chị. Hãy đi và đừng phạm tội nữa (Ga 8:11).
Nhưng tại sao Người lại không luận tội chị? Bởi vì chính Người sẽ bị luận tội thay cho chị. Người vô tội sẽ không tố cáo, bởi vị người vô tội sẽ chịu đau khổ cho người có tội. Công lý sẽ được cứu vớt, vì Người sẽ trả món nợ cho tội lỗi của chị; tình thương sẽ được cứu vãn, vì các công nghiệp do cái chết của Người sẽ được ban cho linh hồn của chị. Công lý đến trước, sau đó là tình thương; trước là đền bù thỏa đáng, sau là tha thứ. Chúa của chúng ta là Người duy nhất trong đám đông có quyền cầm đá để thi hành án lệnh chống chị, vì Người là người vô tội. Hơn nữa, Người đã không coi thường tội lỗi, vì Người nhận lấy gánh nặng của tội lỗi. Sự tha thứ phải trả giá và cái giá đó được trả trên đồi với ba cây thập giá nơi mà công lý được đền bù và tình thương được trang trải. Chính sự giải thoát khỏi nô lệ tội lỗi này mà Người gọi nó với cái tên mỹ miều là sự Tự Do.
Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do. (Ga 8:36).