Hôm nay là Chúa Nhật V Phục Sinh, chỉ còn một tuần nữa, Giáo Hội sẽ mừng lễ Chúa Lên Trời. Để chuẩn bị cho sự từ giã của Chúa Giêsu, hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta nghe đoạn Phúc Âm mà Chúa Giêsu đã nói trong bữa Tiệc Ly – có thể nói đây là lời trăn trối của Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ và cả chúng ta nữa.
Lời trăn trối thường là tâm tình rất thiết tha của một người sắp từ giã đời này để đi vào thế giới bên kia, và những lời ấy được trao lại cho những người thân yêu với sự tin tưởng rằng lời trăn trối ấy sẽ được thực hiện. Có lẽ đó là lý do sau khi Giuđa rời khỏi phòng tiệc thì Chúa Giêsu mới bắt đầu tâm sự.
Chúa Giêsu trăn trối như sau: “Hỡi các con, Thầy chỉ còn ở với các con một ít lâu nữa thôi. Thầy ban cho các con một điều răn mới: hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng phải yêu thương nhau như vậy.”
Nghe qua lời này, chúng ta ngạc nhiên vì không có gì khác lạ hay đặc biệt – nó cũng giống như nhiều người trước khi từ trần khuyên nhủ con cái hãy yêu thương, đoàn kết với nhau. Nhưng suy nghĩ lại, chúng ta thấy lời khuyên của Chúa Giêsu rất thực tế và nhấn mạnh đến một điểm rất quan trọng là tình yêu.
Nhiều gia đình không còn êm ấm sau khi cha mẹ từ trần chỉ vì con cái tranh giành nhau tài sản, của cải mà cha mẹ để lại. Trong các tập thể ngoài xã hội, dù là tôn giáo đi nữa, các phần tử cũng ghen tị, tranh giành lợi lộc, quyền thế chứ không muốn sống theo lý tưởng tôn giáo. Có thể nói, tình yêu bị biến dạng, bị ảnh hưởng của tội nguyên tổ nên con người trở nên ích kỷ, tham lam, yêu mình hơn là yêu người. Đó là một trong những lý do Thiên Chúa xuống thế làm người để dạy bảo và sống làm gương cho loài người chúng ta, và để giúp chúng ta thấy được thế nào là một tình yêu chân chính.
Có lẽ vì sự quan trọng đó nên Chúa Giêsu coi tình yêu không chỉ là một điều răn mà còn là một điều răn mới. Các điều răn cũ là Mười Điều Răn do Thiên Chúa ban cho ông Môsê. Tổng quát các điều răn ấy khuyên chúng ta đừng làm những điều gì xúc phạm đến Thiên Chúa và gây thiệt hại cho nhau. Nói chung, các điều răn đó thì tiêu cực – đừng làm điều này, điều nọ – nên chưa nói lên được bản chất của loài người chúng ta, là con cái của Thiên Chúa, là những người được tạo dựng vì Tình Yêu. Do đó, Chúa Giêsu nâng tình yêu lên thành một giới răn rõ rệt – có nghĩa là chúng ta không thể vi phạm giới răn tình yêu này, tương tự như không được vi phạm Mười Điều Răn.
Giới răn tình yêu đó như thế nào để được coi là mới? Qua cuộc đời của Chúa Giêsu, chúng ta thử nhìn đến một vài đặc điểm tình yêu của Chúa Giêsu để có thể áp dụng vào đời sống.
Trước hết, tình yêu phải nâng cao phẩm giá con người khi quy hướng đến sự thật. Khi yêu nhau, người ta thường chủ quan cho rằng lối sống của mình là đúng, nhưng nếu lối sống đó, cách cư xử đó không hướng đến sự thật thì tình yêu ấy không đạt được mục đích của nó.
Chúa Giêsu yêu thương các tông đồ, nhưng Người sẵn sàng lên tiếng chấn chỉnh, dạy bảo khi họ có những sai lầm. Tương tự, cha mẹ yêu thương con cái nhưng không dạy bảo, không cho biết những điều sái quấy thì đó là sự nuông chiều, sợ đối diện sự thật, chứ không phải yêu thương con cái theo đường lối của Chúa.
Đời sống vợ chồng cũng vậy, tình yêu có thể làm cho người ta mù quáng không nhìn thấy khuyết điểm của nhau, hoặc sợ mất lòng nhau nên không dám lên tiếng để chấn chỉnh, và như thế tình yêu ấy không được coi là mới bởi vì nó không giúp vợ chồng thăng tiến về tinh thần. Mục đích của hôn nhân Kitô Giáo là giúp vợ chồng cùng nhau thăng tiến về mọi phương diện – vật chất cũng như tinh thần – do đó, vì tình yêu, vợ chồng phải can đảm nói cho nhau biết các ưu và khuyết điểm, và vì yêu nhau, họ khiêm tốn chấp nhận để thay đổi trở nên hoàn thiện hơn.
Một trở ngại được thấy trong lối đối xử của những người thân quen là chúng ta thường chỉ nhìn thấy khuyết điểm hơn là ưu điểm của người khác, do đó, cha mẹ hay vợ chồng thường lên tiếng khi thấy khuyết điểm của con cái hay của vợ/chồng mà lại không khen ngợi ưu điểm. Điều này khiến cho người khác không muốn chấp nhận vì cho rằng đó là sự chê bai, chỉ trích.
Khi lên tiếng khen ngợi người khác, chúng ta cần lưu ý rằng khen ngợi ưu điểm khác với sự nịnh bợ. Nịnh bợ là để có lợi cho chính người nịnh bợ, trong khi khen ngợi là để có lợi cho người khác. Nịnh bợ là nói một điều không có thật, và như vậy, thay vì giúp nhau thăng tiến, chúng ta lại để người khác sống trong sương mù của sự tự mãn và kiêu căng.
Tình yêu của Chúa Giêsu dành cho nhân loại được coi là tuyệt vời bởi vì nó bao gồm sự hy sinh chính mạng sống của mình. Đó là đặc điểm thứ hai chúng ta cần noi theo, tình yêu phải bao gồm sự hy sinh.
Bản tính tự nhiên của con người là yêu người làm ơn cho mình, đối xử đẹp với ai tốt với mình, và thù ghét người đối xử tệ bạc với mình. Đó là lối sống mà chúng ta có thể nói, ngay cả loài vật cũng sống như vậy. Đó là các quy luật “Ăn miếng trả miếng”, “Mạnh được yếu thua”, “Mắt đền mắt, răng đền răng,” v.v. Nhưng tình yêu kiểu đó không giúp loài người thăng tiến mà nó lại hạ thấp phẩm giá của con người.
Xã hội ngày nay đề cao chủ nghĩa cá nhân và sự hưởng thụ nên sự hy sinh dường như vô nghĩa, ngay cả trong tình yêu vợ chồng. Có lẽ đó là một trong những lý do khiến hôn nhân ngày nay dễ đổ vỡ. Một khi vợ chồng coi sự hy sinh cho nhau là một thua thiệt; cha mẹ coi sự chăm sóc, nuôi nấng con cái là một gánh nặng thì tình yêu con người đã bị biến dạng để trở nên một loại cảm xúc vị kỷ, không có lợi gì cho bản thân theo quan điểm của Kitô Giáo.
Người ta thường có cái nhìn tiêu cực về sự hy sinh, có nghĩa, nó không có lợi cho bản thân, nhưng đời sống của Chúa Giêsu cho thấy tình yêu dẫn đến sự cứu độ qua sự hy sinh. Do đó, chúng ta cần đổi mới cái nhìn về sự hy sinh.
Có thể nói sự hy sinh là điều Thiên Chúa hoạch định ngay trong bản tính tự nhiên của con người. Một đứa bé thì thường đòi hỏi, muốn được chiều chuộng, thỏa mãn ý muốn của nó. Nhưng khi trưởng thành, vì tình yêu người ta hy sinh phần nào “cái tôi” của mình để biết nghĩ đến người khác, để làm vui lòng người yêu. Sự hy sinh nói lên sức mạnh của tình yêu. Yêu nhiều thì hy sinh nhiều. Nhưng đó không phải là một thiệt hại bởi vì khi hy sinh, người ta thấy mình có giá trị. Từ giá trị đó, người ta nhận thấy rằng giá trị đích thực của một con người thì không nằm trong sự hưởng thụ vật chất, hay thỏa mãn danh vọng, quyền lực mà là sự phục vụ vô vị lợi.
Tình yêu càng mạnh thì người ta càng hy sinh phục vụ, ngay cả đưa đến sự thiệt hại cho bản thân – đó là tấm gương của Chúa Giêsu. Từ cái nhìn này, có thể nói Thiên Chúa muốn tất cả loài người được cứu độ, dù họ là người ngoại giáo hay vô tôn giáo, một khi họ thể hiện tình yêu trong đời sống qua sự hy sinh cho tha nhân. Nói như vậy thì có gì khác biệt giữa tình yêu bình thường và tình yêu theo gương Chúa Giêsu?
Sự khác biệt là tình yêu của Chúa Giêsu để thể hiện ý định của Chúa Cha chứ không phải ý muốn của riêng mình. Do đó, noi gương Chúa Giêsu, khi chúng ta hoạch định một chương trình, theo đuổi một mục đích, một lối sống nào đó để thể hiện tình yêu đối với tha nhân, chúng ta cần lắng nghe người khác – nhiều khi chính con cái trong nhà – để nhận biết điều đó có phải là ý định của Thiên Chúa hay không. Chỉ những ai khiêm tốn mới có thể nhận ra ý định của Thiên Chúa mà nhiều khi rất khó để chấp nhận.
Nói tóm lại, Chúa Giêsu coi tình yêu là một giới răn để giúp chúng ta được cứu độ. Chúng ta có thể tiếp tay trong sự cứu độ ấy bằng cách hướng tình yêu của chúng ta đến chân lý, và thể hiện tình yêu bằng những hy sinh theo thánh ý của Thiên Chúa. Có như thế, người ta sẽ nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu, bởi vì họ nhận thấy một tình yêu mới nơi chúng ta.