Cuộc nổi dậy của người Do Thái chống lại sự cai trị của Seleucid, do Judas Maccabeus lãnh đạo (năm 167 trước Công nguyên), kết thúc bằng việc ngôi đền thờ bị phá hủy (năm 70 sau Công nguyên). Người Do Thái tiếp tục cuộc đấu tranh của họ dưới sự lãnh đạo của Bar Kochba (năm 135 sau Công nguyên). Có một sự kêu gọi dân Israel hoán cải. Sự kêu gọi này nhận được những gợi ý khải huyền rằng trước ngày tận thế, dân Israel sẽ trở lại nhờ sự trợ giúp bằng ân sủng của Thiên Chúa. Trong tình huống này, dân Israel đang chờ đợi một ngôn sứ thời cánh chung, đấng sẽ công bố một cơ hội cuối cùng cho sự hoán cải tâm linh. Sau khi đền thờ bị phá huỷ, nhiều áng văn khải huyền đã được sử dụng để giáo dục niềm tin vào Đấng Kitô, Đấng sẽ công bố một vương quốc vĩnh cửu thay thế cho thế giới cũ. 1
Niềm hy vọng vào Đấng Thiên Sai được được Chúa hứa qua tường thuật của sách Sa-mu-en quyển 2: "Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi - một người do chính ngươi sinh ra, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền. Chính nó sẽ xây một nhà để tôn kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi. Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con" (2 Sam 7:12-14). Chúa đã nhận những kẻ nối dõi Đa-vit như con nuôi của mình. Lịch sử cho thấy sự kế vị này kéo dài được bốn thế kỷ qua mười chín đời vua trong dòng dõi Đa-vit. Con Cháu Đa-vit đã hư đốn và thờ ngẫu tượng. Việc này dẫn đến cuộc khủng hoảng và sự sụp đổ của triều đại Đa-vit năm 586 TCN. Dù vậy, lời hứa của Thiên Chúa đối với Đa-vit vẫn không bị rơi vào quên lãng; nó được thực hiện nơi chính bản thân Chúa Giêsu. 2 Đây không còn là con nuôi được Thiên Chúa nhận như con cháu theo huyết thống của Đa-vit nữa mà là chính Con duy nhất của Thiên Chúa đã được sai đến với loài người chúng ta.
Chúa Giêsu trước lúc chuẩn bị cuộc thương khó và hoàn tất sứ vụ trần gian của mình, Người đã trắc nghiệm xem các môn đệ đã hiểu gì về bản thân mình. Họ cho biết người ta nhận định về Người như là: Gioan Tẩy Giả, Ê-li-a, Giê-rê-mi-a hay một trong các tiên tri. Nhưng may mắn thay, Phêrô đã nhận ra Người là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống. Tước hiệu thứ nhất chỉ Đấng Thiên Sai, Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn và sai đến với con người; còn danh hiệu thứ hai chỉ thân phận đích thực của Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa.”
Sau khi trằn trọc suy tư về sự bí mật của danh hiệu Con Thiên Chúa, Brant Pitre tuyên bố rằng: Lý do Chúa Giê-su không nhiều lần và rõ ràng tuyên bố mình là Đấng Mê-si-a cũng là lý do Chúa Giêsu không nhiều lần tuyên bố mình là Thiên Chúa. Bởi vì sự thật về Thiên tính của Người thậm chí còn quan trọng hơn danh tính đấng thiên sai Mê-si-a. Trong suốt thời gian thi hành sứ vụ, Người chỉ nói về điều đó bằng những ẩn ý cho đến khi Người mạc khải nó cách đầy đủ. 3
Thánh Mac-cô gọi Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa vào giây phút Người nhận phép rửa của Gioan Tẩy Giả (Mc 1:1, 11). Chúa Giêsu trên thập giá đã mạc khải tước hiệu này cho viên đại đội trưởng khi ông thấy Người tắt thở cách kỳ lạ như vậy và ông đã thốt lên: "Quả thật, người này là Con Thiên Chúa" (Mc 15:39). Người mạc khải thân phận là Con Thiên Chúa khi Người tuyên xưng rằng: "Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho" (Mt 11:27). Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ tuyên xưng rằng Người chỉ mạc khải về Chúa Cha cho những ai Người muốn. 4
Gerald O’Collins giải thích rằng có một sự hợp nhất duy nhất về kiến thức cứu độ mà Chúa Cha chia sẻ cho Chúa Con. Chúa Cha mà Chúa Giêsu mạc khải ở đây không phải là Đấng mà Người mới nhận ra, mà trên thực tế một mình Người đã biết một cách thực sự và đầy đủ từ thưở đời đời. 5
De Letter đã viết: Chúa Giêsu biết rằng Người là, và đã luôn luôn là Con của Chúa Cha từ đời đời. 6 Phúc âm thánh Gioan thuật lời Chúa Giêsu: "Tôi và Chúa Cha là một" (Ga 10:30). Đức Giáo Hoàng Benedict XVI trong tác phẩm Jesus of Nazareth đã viết như sau: “Jesus comes to live with us as the ‘beloved Son’.” Nghĩa là Chúa Giêsu đến và sống với chúng ta với tư cách là Người con yêu dấu [của Chúa Cha]. Đức giáo hoàng trích dẫn lời thánh Augustin: Vượt thời gian và không gian, Người luôn luôn ở với chúng ta, ở trong chúng ta còn hơn là ta ở trong ta nữa (Saint Augustine, Confessions, III, 6, 11). 7
Trước khi chấm dứt sứ vụ trần thế của mình, Chúa Giêsu đã chọn người đứng đầu Hội Thánh của Người để công cuộc cứu chuộc nhân loại của Người vẫn được tiếp tục cho đến tận cùng trái đất. Thánh Phê-rô được chọn không phải vì công trạng hay tài năng của người, nhưng vì ông đã được Chúa Cha chúc phúc khi mạc khải cho ông biết thân phận thực sự của Chúa Giêsu. Chúa đã xác nhận với Phê-rô về điều này khi tuyên bố rằng: "anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời" (Mt 16:17). Điều này cho thấy Giáo Hội mà Chúa Giêsu quy tụ không đặt nền móng trên sáng kiến hay tài năng con người, nhưng đặt nền móng trên ân sủng của Thiên Chúa. Chính vì thế mà cửa địa ngục không thể thắng nổi.
Việc Chúa Giêsu trao quyền cho Phê-rô - "Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy" - gợi lại lời sách tiên tri I-sa-i-a: "Chìa khoá nhà Đa-vít, Ta sẽ đặt trên vai nó. Nó mở ra thì không ai đóng được, nó đóng lại thì không ai mở được" (Is 22:22). Thánh Kinh Cựu Ước thường dùng Chữ tháo cởi để chỉ sự tha thứ (ví dụ: G 42:9 LXX; Hc 28:2; Kh 1:5). Ở đây Chúa Giêsu trao ban cho Hội Thánh quyền rao giảng Tin Mừng, điều hành Giáo Hội và tha thứ hay cầm buộc tội lỗi nhân danh Thiên Chúa. 8
Chúng ta đã đón nhận đức tin, được lãnh nhận các bí tích và nhờ đó đón nhận được ân sủng của Thiên Chúa qua sứ vụ của các tông đồ và những người kế vị của các ngài. Vì thế, Giáo Hội đóng vai trò trung gian cho ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã muốn trao ban cho loài người.
Lạy Chúa con cảm tạ Chúa vì đã yêu thương chúng con ngay khi chúng con còn là tội nhân. Chúa đã ban ơn đức tin cho con qua lời rao giảng của các tông đồ và đã đem lại cho chúng con sự an ủi và phương dược để chữa trị căn bệnh tâm linh của chúng con qua việc tha thứ tội lỗi cho chúng con. Xin Chúa hãy gia tăng đức tin và lòng khiêm tốn để chúng con nhiệt thành cộng tác với Giáo hội Chúa trong sứ vụ thánh hoá và đưa nhiều linh hồn về với Chúa. Amen.